Trần Thăng, Trần Thái nhận lệnh Đinh Bộ Lĩnh ở lại giữ đất Bố Khẩu, dù trong suốt mấy năm không có nguy xâm lấn nhưng một mực nghiêm chẩn chẳng lơi là.
Trên phòng tuyến mà xưa Bộ Lĩnh cho xây đắp, Thái, Thăng lại cho lập thêm nhiều đồn chốt, cắt cử người thay nhau canh giữ không ngơi một khắc.
Tin thắng trận mỗi năm đôi ba lần gửi về, thế cờ ngày càng rõ được thua nhưng không lần nào thư không nhắc "phải cẩn thận", Thái, Thăng cũng không cần nhắc, thương hai anh em cứ người giữ thành thì người đốc thúc các đồn chốt không nghỉ ngày nào.
Trần Lãm giao toàn bộ việc quân ở Bố Khẩu cho hai con còn mình trở về với đúng nghĩ một người buôn sành sỏi. Trong là đồng bằng phù sa màu mỡ, ngoài là cửa biển tiện thông thương, neo đậu, đánh bắt, vùng Bố Khẩu nhờ đó mà ngày càng thịnh vượng.
Là một người buôn, Trần Lãm luôn cho rằng việc chọn Đinh Bộ Lĩnh để gửi gắm cơ đồ của mình và hậu vận của các con chính là thương vụ lớn nhất đời mình. Đôi khi ông tự ví mình với Lã Bất Vi đời chiến quốc ở phương Bắc, chỉ khác rằng Bất Vi dựa vào thủ đoạn bất minh mà thành công, còn ông là nhờ con mắt tinh anh nhìn người lại theo đạo mà đi.
Cuối năm 968, Trần Lãm nhuốm bệnh, biết khó mà qua được mới gọi hai con kề cận dặn dò, Trần Thăng, Trần Thái nghe tin bỏ hết việc quân về quỳ sụp bên giường cha.
Trần Lãm thều thào:
- Phụ thân biết hai con chẳng có chổ nào vượt trội hơn người dù rằng trí sức không phải tầm thường nên vẫn luôn dặn dò phải cẩn trọng không chút sơ sẩy, không lập công thì cũng chẳng để lỗi lầm. Nay lỡ như phụ thân có mệnh hệ, lời ấy cũng đem cột trong lòng chớ quên.
Thăng, Thái bây giờ mắt đã chẳng phân biệt được tròng trắng đen, chỉ một màu đỏ mờ đi dưới ngấn nước chực rơi, cả hai chồm lên nắm lấy tay cha, nghẹn đắng chẳng thể nói lời nào.
Trần Lãm lại gượng sức:
- Bộ Lĩnh là chồng của em gái nhưng cũng là chủ tướng của hai con, tài đức Bộ Lĩnh thế nào, được thua trên chiến trận mấy năm qua ra sao chắc hai con đã rõ, vậy nên sức có năm dùng năm, có mười thì dùng cả mười, một lòng trung mà đi theo đừng sai khác.
Đó cũng là lời cuối của Trần Lãm, nói xong nhắm mắt mà đi trong tiếng gào thảm của Thái, Thăng. Hai anh em làm tang cha rất trọng, dân trong vùng chịu ơn khi trước đến viếng rất đông.
Bảy ngày tang xong, Thăng, Thái bàn nhau việc quân trở lại thì bỗng có lính về báo:
- Thưa hai tướng, Lý Khuê vượt sông đánh vào Bố Khẩu ta, hai tướng mau chi viện kẻo phòng tuyến võ mất.
- Chúng có bao nhiêu quân? - Trần Thăng thảng thốt hỏi -
- Thưa, hiện tại chỉ khoảng hai ngàn
- Được ngươi lui đi - Thăng khoát tay ra hiệu, đoạn lại trông qua nhìn Trần Thái.
Trần Thái dường như đang cố trấn tĩnh lại, gương mặt đầy vẻ lo lắng, Thái cũng đưa mắt nhìn qua Thăng.
Nét mặt của Trần Thăng lúc đó cũng không kém phần lo lắng chỉ có điều ẩn trong sự lo lắng ấy có cả một chút phấn khích của người tướng sắp được ra trận.
Trần Thái tuyệt không phải người nhút nhát, cũng tuyệt không phải kẻ chẳng đáng mặt làm tướng, Thái giống Trần Lãm ở chổ chỉ muốn yên không muốn động nhất là chuyện binh đao.
Còn Trần Thăng rõ ràng không phải một tướng kém cỏi, tính Thăng sôi nổi, hoạt bát, thích xông pha. Hồi Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn còn đóng ở Bố Khẩu, Thăng thường cùng các tướng thử võ nghệ, Thăng giỏi cưỡi ngựa, khi đánh trên sới thì chịu kém còn trên mình ngựa thì đến Nguyễn Bồ cũng nhận không bằng.
Thấy anh mình vẻ như chưa có cách hay, Thăng liền cất tiếng:
- Chuyện gấp ta nên quyết cho nhanh, nay em xin lĩnh ba ngàn quân chi viện, còn anh ở lại giữ thành.
- Cũng chỉ còn cách ấy - Thái đáp - Thực lực bọn Lý Khuê thế nào ta còn chưa rõ, đành tùy cơ ứng biến vậy. Em ra đấy chắc thắng thì đánh, không chắc thắng thì đừng đánh cố.
- Em sẽ chú ý, nhưng lỡ có gì sơ sẩy, anh phải cố giữ lấy thành chờ tiếp viện, đừng liều mạng nướng quân lại thêm mất thành hỏng hết việc của chủ tướng.
- Được rồi, điểm binh đi ngay đi.
Cổng thành mở, Trần Thăng dẫn theo ba ngàn quân tiếp viện phòng tuyến, đi được hai phần ba đường thì đã thấy một đạo quân lạ tiến lại.
Quân ấy độ hơn năm ngàn, không hề dùng ngựa, toàn quân vận áo đen, quần đen, phía trước là đội khiên, kế sau là tiễn thủ, ngay sau đó là quân giáp chiến, cứ kế một người cầm kiếm là một kẻ dùng giáo, vẻ khí thế vô cùng.
Trông cờ xí thì rõ là quân Lý Khuê, Trần Thăng thất thần tự nói một minh:
- Phòng tuyến vỡ rồi, gay to.
Thăng lại đưa mắt nhìn vào giữa quân ấy, ở đó có một kẻ ngồi lọng tre, không xa hoa diêm dúa nhưng vẫn có chút ngạo nghễ. Thăng giận tím mặt.
Kẻ đó không cao, không quá mập, gương mặt tròn, râu tóc xồm xoàm, lông mày xếch lên, mắt dữ tợn, đó là Lý Khuê.
Lý Khuê lệnh cho quân mặc đồ đen, đang đên vượt sông để không bị phát hiện, lại dồn quân đánh vào một điểm trên phòng tuyến, lực lượng trên phòng tuyến khi ấy đang mỏng vì vậy chẳng mấy chống mà Khuê phá được.
Hạ được phòng tuyến, Khuê cho quân tiến về thành Bố Khẩu, quân tiếng chẳng bao lâu thì gặp một đạo quân khoảng ba ngàn đang vội vã kéo tới. Đạo quân ấy nửa là kị binh, nửa là quân giáp chiến giáo gươm có đủ, đó là quân Trần Thăng.
Chổ quân Lý Khuê và Trần Thăng gặp nhau là một bãi đất pha cát rộng lớn, phù hợp cho bày trận giáp chiến, và nếu là giáp chiến thì Trần Thăng tự tin nắm phần chắc thắng dù ít quân hơn, tiếc là Khuê lại dùng tiễn binh.
Đọc được thế trận đó, Trần Thăng nhanh chóng lên kế hoạch trong đầu, vội gọi một bộ tướng tín cẩn lại và nói:
- Xem tình thế này quân ta khó lòng chống đỡ, đánh cố chỉ tổ nướng quân. Ngươi mau mang theo 10 người, ngày đêm không nghỉ ra Đại La, chủ tướng Bộ Lĩnh đang ở đấy, xin với chủ tướng cho quân chi viện.
- Thưa rõ.
Quân gọi chi viện vừa đi, Trần Thăng lại gọi một kị binh đến và lệnh:
- Ngươi chạy về thành, nói rõ vệ ở đây, bảo anh ta mở sẵn cổng thành, ta sẽ vừa đánh vừa rút.
- Thưa rõ.
Tiếp đó Thăng ngầm hiệu cho quân giáp chiến ở hậu quân sẵn sàng trở làm tiền quân ngõ hầu cho quân ấy rút trước, còn mình và kị binh cầm chân Lý Khuê và rút sau.
Khi ấy quân Lý Khuê chỉ còn cách trần thăng độ mười trượng. Khuê sai người khiên lọng ra trước, Thăng cũng một mình tế ngựa đến giáp mặt, Thăng nói:
- Bọn ta và ngươi trước nay chưa từng gây oán chuốc thù, cớ làm sao nhân lúc nhà ta có tang mà đem quân đánh lấn?
- Việc binh cốt ở chớp thời cơ, ta không nhân lúc Bố Khẩu đương có tang sự mà lơi là cảnh giác thì biết đánh lúc nào đây? - Lý Khuê vừa cười ha hả vừa đáp -
- Bố Khẩu ta từ lâu đã là đất của Đinh Bộ Lĩnh, thế quân của chủ tướng ta không lẽ ngươi chưa tường hay sao mà gan to bằng trời vậy? - Trần Thăng đe dọa -
- Ha Ha, ta và Đinh Bộ Lĩnh xưa nay cũng có oán thù chi nhưng y lại đem quân đánh hết sứ này lại đánh sứ khác, trước sau gì cũng đánh tới chổ ta, chẳng lẽ bắt ta ôm cây đợi chết?
- Chẳng lẽ ngươi đem quân đánh qua đây thì tránh được sao?
- Ta xem ngươi về võ nghệ chẳng phải hạng tép tôm, nhưng cái trí của ngươi hẳn là không dùng được - Lý Khuê giễu cợt -
- Rửa tai nghe ngươi chỉ giáo đây - Trần Thăng vẫn điềm tĩnh -
- Nay ta lấy Bố Khẩu của ngươi tất Hoa Lư coi như nằm trong túi, khi ấy ngươi nói xem, ta còn sợ Đinh Bộ Lĩnh không ?
- Ngươi tự tin lấy được Bố Khẩu?
- Ta tất nhiên là thế.
Lý Khuê quả thực không hề nói dối, gương mặt toát lên sự tự mãn như là việc ấy đã làm xong rồi. Quân Khuê đông hơn quân Thăng, tiễn binh phát vài loạt mưa tên, quân Thăng khó mà giữ đội hình, khi ấy quân giáp chiến của Khuê lao lên chém giết thì thắng thua coi như đã định.
Khuê đọc trận thế cũng rất nhạy bén, nhưng Khuê nhầm lẫn một chút, đây là đất họ Trần, ở đây Trần Thăng thông thuộc đến từng hạt cát, và cát như chiều lòng người bắt đầu tung mù trời khi Thăng dứt hiệu lệnh: Bày Trận!
Đội khị binh hơn một ngàn quây lại chạy nối nhau theo vòng trong lớn nhỏ, ngựa như đã được huấn luyện từ trước đưa chân đá cát bay loạn trong không trung.
Chẳng mấy chốc hai quân đã không thể nhìn thấy mặt nhau, Lý Khuê thấy tình thế thay đổi, sắc mặt cũng đổi thay, giận dữ thét tiễn thủ bắn tên.
Tên phát ra bay như mưa rào đầu hạ, mưa rơi thấm đất, tên bay vào đám bui không lồ ấy cũng nhất loạt cắm vào đất, tiếng của quân Trần Thăng khi ấy đã không còn.
Nghĩa là quân Trần Thăng đã rút, nếu rút về Thăng, Thái ở mãi trong thành mà giữ tất khó phá, khi ấy quân chi viện của Đinh Bộ Lĩnh kéo đến, kế hoạch đổ bể, e rằng Khuê khó sống sót mà lường hậu quả.
Nghĩ vậy, Khuê thét quân băng qua đám bụi mà đuổi, bộ tướng của Khuê là Lê Khoa, tay phải cầm kiếm, tay trái cũng cầm kiếm dẫn đầu.
Khoa và lính đến hơn một trăm vừa ló ra khỏi đám bụi thì trúng tên cả, người chết kẻ bị thương, Trần Thăng không mang theo tiễn thủ, nhưng trên lưng của các kị binh thì cung tên có đủ.
Bụi ta dần, Lý Khuê đuổi rát tới, bộ tướng tín cẩn nhất chết quá dễ dàng, quân Thăng thì không mảy lấy một sợi lông, dù là lông ngựa, Khuê ngán ngẩm nhìn phía trước, cũng chừng mười trượng, một đám bụi khác lớn không kém. Tiếng chân ngựa nện xuống đất, tiếng thét của kị binh Trần Thăng làm Khuê ong cả đầu, như muỗi vo vo quanh tai mà không cách nào đập được nó.
Không có thời gian nghĩ lâu, Lý Khuê cũng không nghĩ lâu, lệnh cho đội khiên tiến trước quân giáp chiến tiến theo, tiến thủ yểm trợ ngay sau cốt để hạn chế tên của kị binh Trần Thăng, giúp quân giáp chiến có cơ hội tiếp cận.
Quân ấy lại nhắm mắt lao qua đám bụi thứ hai, lần này an toàn, chỉ tiếc là Trần Thăng không còn ở đó, người ngựa đã chạy được khá xa.
Lấy chân người đuổi vó ngựa là điều không thể, nhưng chỉ sau một phút giận dữ, Khuê lại xua quân tiến. Quân Khuê đuổi theo như thể lá khô gió cuốn, không ngơi một khắc nhắm thẳng Bố Khẩu, dù vậy vưa trông thấy thành thì Trần Thăng đã đứng trên cổng thành tự bao giờ, kị binh cuối cùng đã vào, cổng thành đã đóng.
Khuê đến, Thăng trỏ Khuê nói:
- Bây giờ thì sao, ngươi còn đủ tự tin chứ?
Lý Khuê mặt tái mét, mắt đỏ phừng phừng, người run lên nửa vì mệt nửa vì giận, nhưng vẫn cao giọng nói cứng:
- Cũng thế cả thôi, thay vì bắt giết lần lượt, ta xử hai anh em ngươi cùng lúc cũng không sao.
Thăng bật cười khanh khách:
- Ngươi cố gồng mình làm gì, nếu ta mà là ngươi thì đã rút quân cho sớm chợ rồi, quân chi viện của chủ tướng ta không lâu nữa sẽ đến, lương thảo trong thành ta đử dùng cả năm, cung tên có đủ để tặng cho mỗi các ngươi vài tá về dùng, ngươi có cơ hội sao?
Nói rồi Thăng phất tay, nhất loạt cả ngàn tiễn thủ đứng sẵn trên thành, từ đó Thăng lệnh quân chia làm hai đội, thay nhau đứng sẵn trên thành như vậy.
Lý Khuê không nói thêm gì, biết khó công thành nổi nếu không dùng mạo hay, bèn cho quân hạ trại vây lấy thành chờ nghĩ kế.
***
Tại Đại La, Đinh Bộ Lĩnh khi ấy họp các tướng bàn kế để một trận phục hết các sứ còn lại, kế đã bàn xong, ngày xuất quân đã định, thì bỗng đâu có tin từ Bố Khẩu báo về, Trần Lãm đã mất không lâu sau khi ngã bệnh.
Các tướng ai nấy đều tiếc thương, Bộ Lĩnh lại càng đau lòng hơn, Trần Lãm không chỉ là cha vợ, không chỉ là người trao cho Lĩnh cơ hội làm việc lớn, hơn cả, ông là người mà Lĩnh rất tôn trọng cảm phục.
Dù thế, Bộ Lĩnh không mất đi sự bình tĩnh vốn có của mình nhất là cái trực giác của một vị tướng, ngay đêm đó Lĩnh gọi gấp các tướng đến và nói:
- Mười hai sứ, quân ta đã thu phục đến tám, các sứ còn lại hẳn đang ngày đêm lo sợ nhưng chắc chắn chẳng chịu ngồi yên, nay Lãm Công, cha vợ ta mất đi, tất có thể có sứ muốn nhân Bố Khẩu có thang sự mà đem quân đến đánh, Bố Khẩu mất, Hoa Lư cũng khó giữ, hậu quả không lường được. Đó chỉ là chuyện ta lo xa, nhưng không thể không đề phòng, các ngươi nói xem nên như thế nào?
Lưu Cơ ngẫm nghĩ một lát rồi đứng ra nói:
- Nếu chuyện đó xảy ra, với bản tính thận trọng của Trần Thái hẳn sẽ cố thủ trong thành rồi xin chi viện, chi băng ta gửi quân đến trước, quân vây thành tất bị bất ngờ mà tháo chạy. Lỡ như không có việc ấy, thì quân chi viện hợp với quân Bố Khẩu vượt sông đánh các sứ cũng không hỏng kế hoạch đã định.
- Nói hay lắm Lưu Cơ, ta cũng có sở ý đó, chỉ đang phân phân khả năng lệnh quân Đăng Châu hay Hoa Lư chi viện có tốt hơn không, nhưng xem chừng cách này là khả dĩ nhất.
Trịnh Tú khi ấy hỏi:
- Phải chẳng chủ tướng sợ quân Đăng Châu hay Hoa Lư chi viện thì lại trúng kế ? Nếu thực có kế ấy thì chi bằng ta nên xuất quân vượt sông sớm hơn keo đêm dài nhiều mộng?
- Phải lắm! Nay ta lệnh cho Lưu Cơ điểm năm ngàn quân kéo đến Bố Khẩu, các tướng còn lại, điểm quân, chuẩn bị binh khi và lương thảo, hai ngày nữa thì xuất quân.
- Rõ - các tướng đồng thanh -
Lưu Cơ dẫn quân chi viện Bố Khẩu, hai ngày hành quân không ngơi nghỉ thì đến đất Đăng Châu của Phậm Bạch Hổ.
Phạm Bạch Hổ từ lúc phá xong sứ Nguyễn Siêu thì theo lệnh Bộ Lĩnh ở lại giữ đất Đăng Châu. Một hôm, Bach Hổ dẫn quân đi tuần, bỗng phát hiện một toán người ngựa đến hơn một chục.
Toán người ấy dường như đang có việc cần kíp, trông qua có thể đoán là đã chạy hơn một ngày không nghỉ, người ngựa lấm lem bùn đất, người thì tóc rối như tổ quạ, ai nây hốc hác luôn miệng quát tháo, ngựa thì vừa chạy vừa phát ra những tiếng phì phì mệt mỏi.
Bạch Hổ lẩm bẩm : "đây chẳng phải quân của Trần Thăng sao, chẳng lẽ Bố Khẩu gặp chuyện?", kế đó liền tế ngựa đến chắn đường. Toán người kia đang cắm đầu chạy thấy bị chắn đường bất ngờ vội vã kéo cương, ngựa cũng bất ngờ, kiễng hai chân lên dừng lại.
Người cầm đầu toán người ấy nhận ra Bạch Hổ vội xuống Ngựa bái chào, rồi thưa:
- Lý Khuê nhân lúc Bố Khẩu có tang sự, kéo quân sang đánh, Thăng tướng quân sai Đào thuấn tôi về Đại La xin chi viện, nhờ Phạm tướng quân nhường đường gấp, việc đang gấp.
- Ngươi kém trí, tướng của ngươi cũng lại thế, Đăng Châu ta sát bên đây sao không gọi chi viện, lại nhọc lòng về đến Đại La, lỡ hỏng việc thì sao?
- Nhưng ... - Đào Thuấn ngập ngừng -
- Nhưng nhịn gì nữa, mau theo ta về thành điểm binh - Bạch Hổ quát -
Đào Thuấn đành theo Bạch Hổ về thành Đăng Châu, trong lòng dẫu còn chút không yên, nhưng vẫn khấp khởi mừng.
Cả quân Bố Khẩu lẫn Đăng Châu kể từ khi theo về Đinh Bộ Lĩnh thì đều áp dụng cách tổ chức quân đội của Lĩnh, theo đó cứ mười người thì lập thành một đội, có một đội trưởng, cứ mười đội như thế lại có một tiểu tướng đứng đầu, lại thêm cứ một chủng quân lại do một bộ tướng nắm giữ nên việc điểm binh trở nên rất nhanh.
Điểm xong ba ngàn quân, Phạm Bạch Hổ sai Đào Thuấn hướng đạo vội vàng kéo đi, quân vừa rời khỏi thành độ 3 dặm thì phát hiện một đạo quân tầm năm ngàn kéo tới, quân ấy vội vàng không kém.
Nhìn cái cách giữ đội hình dù đang hành quân gấp ấy, Bạch Hổ đoán ngay là quân Đinh Bộ Lĩnh, liền lệnh cho tướng sỹ dừng lại đợi, quân ấy gần tới mới biết người dẫn đầu là Lưu Cơ.
Lưu Cơ cũng nhận ra Bach Hổ, cái dáng cưỡi ngựa ưỡn ngực lên thì không lạc đi đâu được, lại thấy Đào Thuấn đứng kế bên thì tám chín phần đã hiểu điều gì đang xảy ra rồi:
- Phạm tướng quân gượm đã - Lưu Cơ gọi -
Bạch Hổ nhạy bén không kém, hỏi ngay:
- Lưu Cơ, ngươi cũng chi viện Bố Khẩu đấy sao?
- Chủ tướng hay tin Lãm Công mất, lo rằng có sứ nhân có đánh qua nên sai tôi mang quân đi, chẳng ngờ có sự ấy thật. Không biết tình hình quân địch thế nào, Phạm tướng quân có kế sách gì chưa?
Đào Thuấn nói xen vào:
- Sứ ấy là Lý Khuê, khoảng 5 ngàn quân, gồm nửa tiễn thủ và nửa quân giáp chiến.
Bạch Hổ nói thêm:
- Ta cũng vưa hay tin, cấp kíp nên chưa có chủ ý gì hay cả.
- Nay tôi hợp quân với ngài tiến qua, quân trong thành đánh ra tất phá được, có điều ... - Lưu Cơ suy tư -
- Có điều gì ? - Bạch Hổ hỏi vội -
- Nếu ta đánh thốc vào sẽ có một trận ác chiến, nhiều người sẽ chết, đó là chổ tối kị của chủ tướng. Nếu có kế bắt được tướng hàng được binh thì tốt hơn.
Cả Bạch Hổ lẫn Lưu Cơ nhất thời chưa nghĩ ra được kế lưỡng tiện, đang trầm ngâm thì bỗng đâu có lính dẫn một người bị trói đến trước mặt hai người.
Người đó trên dưới quần áo đều một màu đen, mặt mày lấm lét, tỏ vẻ run sợ nhưng thủy chung không nói một lời, Đào Thuấn quan sát một lúc rồi lên tiếng:
- Hắn đích thị là quân do thám của Lý Khuê rồi.
- Quan do thám của Lý Khuê à? Hừm !
Lưu Cơ vừa tự hỏi vừa ngẫm nghĩ, đoạn quay qua mấy người lính, lệnh:
- Các ngươi giải thả cho hắn về đi.
Bạch Hổ đợi lính giải tên do thám đi rồi mới bày chổ nghi:
- Sao người không tra khảo rồi hẵng thả?
Lưu Cơ chậm rãi trả lời:
- Thế quân Lý Khuê ra sao Đào Thuấn đã nắm được, tra khảo cũng chẳng có thêm gì.
Bach Hổ gật đầu cho là phải.
Lưu Cơ nói tiếp:
- Ở đây có sự không ổn, nếu Lý Khuê vây Bố Khẩu rồi mới sai quân đi thám thính thì tên trinh sát ấy không thể đến đây nhanh như thế được, bởi Đào Thuấn đã đi hết sức mà giờ mới tới, chỉ có thể là trước khi đánh vào Bố Khẩu, Khuê đã sai người đi rồi.
- Ý ngươi là sao? - Bach Hổ hỏi, Đào Thuấn cũng nhìn Lưu Cơ chờ câu trả lời.
- Hắn rõ sức quân ta nên mới đem quân đánh trước hòng tìm đường sống về sau, nay việc đánh nhanh thắng nhanh Bố Khẩu bất thành, tất đoán biết quân chi viện sớm muộn cũng đến mà vẫn vây lấy Bố Khẩu, chứng tỏ mục tiêu của hắn không phải Bố Khẩu mà chính là quân chi viện.
- Năm ngàn quân, đối phó quân chi viện và cả quân trong thành ư?
Đến lượt Bạch Hổ tự hỏi vừa suy tư, đoạn như chợt hiểu ra liền gọi một bộ tướng là Đỗ Giang đến và lệnh:
- Ngươi dẫn theo mười người giả làm người đánh cá, xuôi thuyền thám thính xem phía bên kia bờ có quân thanh viện của Lý Khuê hay không !
- Rõ thưa tướng quân!
Y theo lệnh ấy, Đỗ Giang vờ làm người đánh cá, theo sông xuôi dòng, đến chổ gần Bố Khẩu quả nhiên phát hiện phía bên kia bờ có quân đang đóng chờ tiếp ứng, thuyền bè đã sẵn sàng, quân ấy có đến năm ngàn, trông qua trang phục thì chính là quân Nguyễn Thủ Tiệp
Bác ơi! Khi nào có hồi tiếp theo vậy?
ReplyDeleteHồi tiếp theo thì có rồi, nhưng mình chưa post bạn ạ.
DeletePost tiếp đi bác ơi! Mong quá!
DeleteCứ vào trang bác check mà ko có!
Cách viết sử Việt của bác độc và hấp dẫn quá!
bài này hơi dài, nên chia thành 2 bài
DeleteMình chưa có gõ nữa :v mới viết ra giấy thôi. Cũng đang tìm cách cho nó được xuất bản theo dạng nào đó, nếu không được thì sẽ post lên.
ReplyDeleteYên tâm là mình còn viết đến thời Quang Trung lận, hi vọng là bút lực đủ và các bạn còn quan tâm.
Tuyệt vời! Dù xuất bản dưới hình thức nào cũng ủng hộ bác. Ra sách cứng thì càng tốt! Mình sẽ mua ngay nếu sách dc xuất bản.
ReplyDelete