Sunday, November 17, 2013

Loạn Thế Lộ Chân Long, hồi thứ 16

Theo kế của Bộ Lĩnh, bọn Nguyễn Bồ đem rơm khô chất thành đống, mỗi đống gần nửa trượng, cứ cách một trượng thì có một đống, lại cho chất ít rơm ướt lên. Hôm đó, lính do thám về báo quân Trần Côn, Khánh Trí chỉ còn cách hai dặm, Bồ sai người đốt lửa, lại cho cung thủ sẵn sàng, Khánh Trí vốn là tướng trẻ ít kinh nghiệm trận mạc, thấy khói mù trời vẫn thốc quân tiến mãi.

Tiền quân của Trí, Côn vừa lú khỏi đám khói, hàng ngàn mũi tên đã lao tới, người ngựa té nhào hết cả, Trần Côn múa thương gạt tên ra hết, lúc đó Nguyễn Bồ tế ngựa đến vung trường đao chém ngang, Côn ngã người trên mình ngựa né được, lại vỗ ngựa chạy qua xoay người nhắm vai Bồ mà chém, lưỡi đao chưa đến thì đã Nguyễn Phục ở ngoài tế ngựa vào đỡ được.

Phục khỏe hơn theo đà đè đao của Côn xuống, Côn cố sức rút mãi chẳng được, bất ngờ Phục buông đao, Côn theo trớn ngửa người lên, vô tình để lộ điểm yếu, đúng lúc đó lưỡi đao của Nguyễn Bồ tìm đến. Côn gục chết trên ngựa, Khánh Trí lúc này đang mãi đánh với Đinh Thiết, Cao Sơn trông qua thấy Côn thua, nhìn lại sau thấy quân mình tan tác hết liền quay ngựa bỏ chạy.

Đinh Thiết, Cao Sơn đang đánh, thấy Trí bỏ chạy, vỗ ngựa theo, nào ngờ chạy được một đoạn, Trí xoay người dùng nỏ bắn lại, Đinh Thiết không kịp tránh trúng tên ngã ngựa mà chết. Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục từ xa thấy cả giận, thét quân đuổi rát, cả lính lẫn trướng của Trí thấy nộ khí cắm đầu chạy.

Trí càng chạy, bọn Nguyễn Bồ càng đuổi, vừa say trận vừa say giận cứ mãi miết đuổi mà không biết đã qua đất Tây Phù Liêt tự lúc nào. Khi Trí vừa lao ngựa qua một bờ đất mới đắp thì phía bên kia lính của Nguyễn Siêu trổ lên dùng nỏ mà bắn, cả quân Trí chưa qua khỏi bờ lũy lẫn tiền quân của bọn Nguyễn Bồ đều chết hết. Nguyễn Phục, Cao Sơn chống được một lúc cũng trúng tên chết cả, Nguyễn Phục gào lên động cả đất trời, lao ngựa đến cắp lấp xác em mình và Cao Sơn rút chạy, được một đoạn cũng trúng tên vào lưng.

Hậu quân còn hơn hai ngàn, mang xác 3 tướng và dìu Nguyễn Bồ về thành Đăng Châu, Bộ Lĩnh và các tướng nghe tin chạy như bay từ trong thành ra ngoài đón. Thấy Lĩnh ra, Bồ quỳ phục xuống lạy một cái, rồi trông qua Nguyễn Bặc nói :

- Anh thấy Đinh Thiết bị Khánh Trí bắn chết, cả giận đuổi sang đất Tây Phù Liệt bị mai phục liên lụy đến em Phục và Cao Sơn. Nay anh không còn được lâu, em phải đem sức mà phò chủ tướng thay cho anh và em Phục.

Nói xong thổ huyết mà đi.  Bộ Lĩnh ngửa mặt lên trời ngăn không cho nước mắt rơi, còn Nguyễn Bặc lặng thinh không nói, khụy xuống ôm lấy anh mình.

Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục vốn là anh và em ruột của Nguyễn Bặc, còn Đinh Thiết là em của Đinh Điền, xưa nay việc huấn luyện binh sỹ ở Hoa Lư, Bộ Lĩnh đều giao cho bốn tướng này cả mà chẳng bận lo gì, nay bốn tướng chết đi chỉ trong một trận, lòng Bộ Lĩnh tiếc thương bao nhiêu càng căm hận Nguyễn Siêu bấy nhiêu.

Lĩnh cho làm tang rất hậu, nhưng từ đó án binh bất động, các tướng không biết là chủ ý gì. Một hôm Lĩnh gọi bọn Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Phạm Hạp, Cự Lang ra tản bộ bên bờ sông, Lĩnh nói:

- Việc huấn binh, xưa nay ta giao cả cho Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn mà chẳng cần lo, nay bốn tướng chết trong tay quân siêu mà ta lại án binh bất động tất trong lòng các ngươi có nhiều nghi.

Lĩnh lúc này trông qua Nguyễn Bặc, Bặc im lặng không nói, Lĩnh lại tiếp:

- Ta biết ngươi cũng như Đinh Điền  rất nóng lòng báo thù, nhưng ta xem Nguyễn Hiền không phải là kẻ vừa, bên hắn sợ ta báo thù tất hiến kế bày mai phục khắp nơi, nay ta vì giận mà tiến quân khác nào nướng quân, đó là bài học của Nguyễn Bồ vậy, lỡ như ta mất một trong số các ngươi hay Đinh Điền hay Trịnh Tú ta biết làm sao.

Nguyễn Bặc lúc này mới đứng ra nói:

- Thuộc hạ chỉ mong sớm lấy đầu Nguyễn Siêu, nhưng một lòng tin vào chủ tướng, nay chủ tướng đem tâm sự ra nói chắc là đã đến lúc xuất quân?

- Bây giờ đã là tháng 7, ta xem chẳng mấy ngày nữa là vào mùa bão, bão vừa tan nhân đó tiến quân tất phá được cơ quan mai phục, lại nữa, nếu ta vây thành Nguyễn Siêu sợ phải vượt sông qua mà hội với Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, sau bão tất có lũ, hắn muốn vượt sông cũng phải đợi mấy ngày, ta xáp lại mà đánh lại lo gì không thắng, đầu Nguyễn Siêu, Nguyễn Hiền khi đó dành cho ngươi và Đinh Điền.

- Xin chủ tướng cho lệnh điểm binh ! - các tướng đồng thanh-

- Nay Nguyễn Bặc làm tiên phong lãnh năm ngàn quân ra đóng ở gần Tây Phù Liệt, Lưu Cơ, Phạm Hạp và ta sẽ cầm đại quân phía sau. Cự Lang mang thư của ta về Động Giang trao cho Trịnh Tú, Đinh Điền rồi ở lại trợ giúp cánh ấy.

Các tướng được lệnh, tức tốc điểm binh, mong sớm báo thù.

Phần quân Nguyễn Siêu sau khi hạ được bốn tướng của Bộ Lĩnh không những không vui thắng trận lại ngày đêm lo sợ Bộ Lĩnh đem đại quân báo thù, đem sự ấy nói với các tướng:

- Chẳng chóng thì chày quân Bộ Lĩnh cũng sang báo thù, Bộ Lĩnh cầm quân chẳng phải như bọn Nguyễn Bồ, trong tay hắn lại có đại quân, các ngươi nói nên thế nào?

Nguyễn Hiền đứng ra thưa:

- Vẫn là câu ngồi đợi không bằng hành động trước, ta nay gia cố cơ quan mai phục ở phía Đăng Châu, lại tiến đánh Động Giang để làm suy yếu cánh quân này, khi chúng kéo vào tất ta cự được.

Khánh Trí nghe thế liền chắp tay:

- Xin chủ tướng cho tôi lãnh binh đi đánh Động Giang.

Nguyễn Siêu thuận tình, cho Khánh Trí dẫn năm ngàn quân.

Trí dẫn quan đi, đến một ngọn đồi nhỏ biết bên kia là đất Động Giang, Trí sai đóng lại mé bên này đồi, nghĩ rằng đợi khi gần sáng sẽ kéo quân qua đánh bất ngờ. Sáng hôm sau, quân Trí vừa xuống đến chân đồi chưa kịp chỉnh đốn đội  hình thì đã thấy Trịnh Tú, Cự Lang, Đinh Liễn mang quân đến chặn.

Bọn Trịnh Tú, Đinh Liễn, Đinh Điền ở lại giữ Động Giang, chờ lệnh phạt Nguyễn Siêu, nào ngờ giữa yên lành tin dữ Đinh Thiết, Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Cao Sơn tử trận về đến, Đinh Liễn, Đinh Điền toan mang quân qua báo thù, Trịnh Tú gàn mãi chưa được thì Cự Lang mang thư Bộ Lĩnh đến. Thư viết:

"Nguyễn Bồ vì cả giận, mang quân qua Tây Phù Liệt mà gặp họa, ta xót thương vô cùng, nay nếu các ngươi cũng cả giận mà làm chuyện tương tự, sa vào lưới của Nguyễn Hiền thì ta biết phải làm sao? Ta xem qua mấy trận vừa rồi thấy Nguyễn Hiền dụng binh, thích lấy chủ động làm trọng, tất không lâu nữa sẽ mang quân qua đánh Động Giang, Trịnh Tú làm chủ cắt cử người giữ thành và điều binh đi chặn đánh cho khéo. Lui được quân ấy, thì đóng lại, theo  kế ta bày Cự Lang chờ khi tiến quân vây thành của Nguyễn Siêu."

Trịnh Tú y lệnh, cắt lại mỗi thành hơn 500 quân để giữ, còn lại cho Đinh Điền làm tiên phong lãnh ba ngàn quân còn mình và Đinh Liễn, Cự Lang dẫn đại quân theo sau. Quân đến ngọn đồi ngăn giữa hai đất Động Giang, Tây Phù Liệt, Đinh Điền mang quân lên đỉnh đồi đóng chiếm cao điểm, nhưng khi thấy tướng giặc là Khánh Trí, kẻ giết em mình, Điền sợ từ trên đánh xuống Trí chạy mất, bèn cho quân tản đi.

Quả nhiên Khánh Trí mang quân đến không thấy gì khả nghi, yên dạ cho quân đóng lại rồi vượt đồi vào sáng hôm sau. Lúc này Cự Lạng, Đinh Liễn, Trịnh Tú ra chăn đánh, Trí trông lên đã thấy Đinh Điền ngất ngưởng trên đỉnh núi, Trí trong dạ kêu khổ, đành làm bạo thúc quân tới đánh bọn Trịnh Tú.

Vừa tế ngựa đến đã gặp Cự Lang ra chặn, Trí chém tới, Lang vỗ ngựa đến đỡ, khi ngựa vừa qua lại trở thương đâm ra sau, thương đi xượt qua mạn sườn của Trí, Trí thất kinh nửa tức tối, quay ngựa lại đuổi Cự Lang toan chém, Lang ruổi ngựa về phía ngọn đồi, Trí cũng chạy theo, đúng lúc đó, Đinh Điền ở trên đỉnh đồi nhảy phóc xuống ngựa, cầm một cái sào tre dài lao xuống nhăm thằng Trí mà chạy.

Trí mải đuổi Cự Lang, lúc sau trông lên thì quá muộn, sào tre của Đinh Điền lao đến đâm vào bụng Trí, hất Trí bay xa mấy trượng, Đinh Điền chồm đến như con hổ lớn, ngồi lên bụng Trí cắm sâu con dao vào tim hắn. Trí trợn mắt nhìn Điền mà chết.

Quân của Trí thấy tướng mình chết trong tình thế đang bị vây kín, lại được Trịnh Tú kêu gọi nên hàng cả. Trịnh Tú định yên hàng binh thì cho đóng lại mé sườn đồi bên Động Giang.

Nguyễn Siêu nghe Khánh Trí chết thì cả kinh, sai người đắp lũy phía Động Giang phòng quân Trịnh Tú. Cuối tháng 7 năm ấy, trời bão lớn quân Bộ Lĩnh cả hai cánh nhân đó tiến quân, quân đến các lũy mà Siêu cho đắp, lúc này bùn lầy đã lên nửa ống chân, quân Siêu tản đi tránh bão gần hết, chỉ còn vài chốt, Nguyễn Bặc sai tiền quân cầm khiên gỗ đi trước, đến nơi cho gác lên chổ bùn lầy mà tiến, quân Lĩnh qua lũy như chẻ tre.

Hai đạo quân lớn của Đinh Bộ Lĩnh vượt hết cơ quan mai phục của Siêu, tiến gần đến thành Tây Phù Liệt, Siêu cuống bàn với Nguyễn Hiền:

- Hai cánh của của Bộ Lĩnh đã sát thành, nay ta lãnh một nửa quân, vượt sông tìm hai em ta cầu viện, còn ngươi ở lại cố gắp giữ lấy thành.

Hiền chịu lệnh, ở lại giữ thành, Bộ Lĩnh kéo đến sai Trịnh Tú, Lưu Cơ, Phạm Hạp, Cự Lang, ở lại vây thành, còn mình cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Đinh Liễn đuổi riết lấy Nguyễn Siêu.

Siêu thúc quân chạy đến bờ sông Hồng đang lúc nửa đêm lại thấy nước dâng cao chảy mạnh, chưa dám vượt sông, sai quân đóng lại cách bờ 1 dặm, đợi sáng ra mới tính. Nào ngờ đến gần sáng Nguyễn Bặc, Đinh Điền kịp đến sai người phóng lửa đốt hết trại, quân Siêu hoảng loạn chạy mãi ra sát mé sông. Lĩnh đuổi đến, sai quân đứng lại, Đinh Liễn thắc mắc hỏi:

- Sao không cho đánh tới thưa cha ?

- Không nên, cùng quân thì đánh càn, lối thoát của chúng đã tận, ta tới tất chúng liều mình mà đánh, dẫu có thắng mà máu đổ nhiều cũng đâu có hay.

- Thế phải làm sao thưa cha?

- Đợi chút nữa tất có kịch hay.

Lĩnh vừa dứt lời, trông ra đã thấy một đội thuyền nhân hơn một trăm chèo độc mộc tiến gần quân Nguyễn Siêu, Siêu như vớ được vàng gọi thuyền nhân đến xin qua sông, thuyền nhân chịu nghe. Siêu lên thuyền trước, quân lính chia nhau lên sau. Đi được gần nửa sông, bỗng nhiên thuyền nhân dùng sào tre gạt quân Siêu xuống sông cả, lúc đó một thuyền nhân cởi nón lá ra cười ha hả, trông ra thì là Phạm Bạch Hổ.

Quân Siêu đạp nước bơi vào bờ thì đã thấy giáo chỉa vào cổ, Siêu bị Nguyễn Bặc bắt sống.

Bặc xử thế nào với Siêu, xem hồi sau sẽ rõ.












Loạn Thế Lộ Chân Long, hồi thứ 15

Phạm Bạch Hổ từ sau khi Ngô Vương mất, Tam Kha phế Xương Ngập thì ở mãi đất Đăng Châu chẳng chịu lệnh triều đình nữa, duy có hai lần động binh đều là theo kế của Bộ Lĩnh. Năm 965,Tấn Vương mất, các sứ quân nổi lên khắp nơi, Hổ cũng tự mình lập sứ xưng là Phạm Phòng Át cốt để các sứ khác không xâm lấn.

Nhưng trời chẳng thuận lòng người, Nguyễn Siêu đóng ở Tây Phù Liệt gần với đất của Phòng Át, Siêu lại theo thói người Phương Bắc muốn xưng hùng xưng bá, kết với hai em là Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Khoan đánh lấn ra ngoài. Siêu thường sai quân đang đêm đánh qua đất Đăng Châu, đánh đến đâu lại lập đồn trại đến đó, Bạch Hổ vì thế phải mang quân đánh trả.

Bạch Hổ tuy đã 57 tuổi nhưng một đời võ nghệ nên thân thủ vẫn rất lanh lẹ, cơ thể rắn chắc, dũng mãnh chẳng vơi, Hổ vốn cũng là kẻ túc trí nên quân Siêu đánh lấn đến đâu Hổ đòi lại bằng hết, cứ thế giằng co mãi mà chưa bên nào chịu nản.

Có lần Siêu sai Trần Côn dẫn hai ngàn quân đánh sâu vào đất Đăng Châu, quân Hổ ra nghênh đánh, được một lúc thua chạy, Côn được thế đuổi riết. Côn đuổi đến mội cánh đồng đang mùa gặt thì bỗng đâu quân của Hổ từ các đụn rơm khô trổ ra đánh, Phạm Bạch Hổ tế ngựa lại gần, trở cán thương giáng xuống đầu Côn, Côn đỡ được nhưng vì lực đánh quá mạnh mà hai tay tê dại run lẩy bẩy, thất kinh, Côn kéo cương ngựa quay đầu bỏ chạy.

Quân Trần Côn khi ấy chết gần nửa, thấy tướng chạy như lánh tà cũng chạy theo, chạy được hơn mười dặm, chưa kịp hoàn hồn thì có một tướng trẻ dẫn một ngàn quân ra chặn đánh, Côn quát hỏi:

- Ngươi là ai, hà cớ chi chặn đường quân ta ?

- Ta là Phạm Cự Lang, cháu của Phòng Át, ngươi đánh lấn đất chú ta, tất nhiên ta phải lo.

Nói rồi thúc quân xáp lại đánh, quân Côn vừa mất vía, nay lại thêm trận, chẳng đánh cũng tự tan, chia nhau chạy, Côn chưa biết làm sao đã thấy mũi thương của Cự Lang nhắm yết hầu lao tới. Côn nghiêng đầu né được trong gang tấc, Cự Lang thuận tay chém ngang làm mũ của Côn bay xuống đất, Côn dính đòn choáng váng, mặt mày sây sẩm, chẳng dám đánh lại thúc ngựa chạy.

Hai vố suýt chết làm Côn chẳng dám ngoảnh đầu lại, một mạch cùng mấy trăm tàn quân kéo về Tây Phù Liệt, gần đến đất mình tưởng đã yên, nào ngờ lại có một tướng trẻ ra chặn, Côn Lại hỏi:

- Ngươi lại là ai ?

- Ta họ Phạm, tên có một chữ là Hạp, anh trai của Phạm Cự Lang, em ta muốn lấy đầu ngươi mà chưa đặng được nên ta đến giúp.

Côn nghe đến họ Phạm thì tá hóa, chẳng dám vào đánh, lệnh cho lính tiến lên chặn, còn mình thúc ngựa chạy, Phạm Hạp lấy ngọn giáo của người lính bên cạnh phóng về phía Côn, giáo đâm đúng vào cổ ngựa. Côn theo ngựa ngã té nhào, lật đật bò dậy cứ thế cắm đầu chạy, Hạp chỉ nhìn theo cười chẳng đuổi.

Côn về thành, thuật mọi sự với Siêu, Siêu chưa nói gì, thì Nguyễn Hiền đứng ra thưa:

- Một Phạm Bạch Hổ ta đã khó đối phó, nay lại mọc đâu ra Phạm Hạp, Phạm Cự Lang, họ Phạm được thế tất cùng nhau đến đánh ta, chi bằng ta điều đại quân trấn giữ trước để chiếm thượng phong.

Siêu cho là phải, phong cho Nguyễn Khánh Trí làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản, điểm binh ra trấn gần đất Đăng Châu.

Lại nói Cự Lang, Phạm Hạp sau khi đánh Côn như đánh chuột đồng, thì hội với nhau rồi cùng kéo về thành Đăng Châu gặp Bạch Hổ, Hổ gặp hai cháu thì lạ lắm bèn hỏi:

- Hai cháu theo Bộ Lĩnh lập không ít công lao, nay vì sự gì lại đến đây?

- Thưa chú, sau khi Tấn Vương mất, cha cháu cũng rời Cổ Loa về Nam Sách, ông và cha sai chúng cháu theo Đinh Bộ Lĩnh, từ ngày theo về biết tài đức chủ tướng động đất trời nên một lòng trung chẳng nghi ngại, nay đến gặp chú cũng vị lệnh chủ tướng đó thôi.

- Chuyện thế nào kể chú nghe.

- Cách đây mấy ngày, chủ tướng sau khi hạ được sứ Cảnh Thạc thì muốn đến bàn với chú kế phạt Nguyễn Siêu, khi gần đến đất Đăng Châu thì lính hướng đạo báo có một đạo hai ngàn quân tiến vào, biết là quân của Siêu và thể nào cũng bị chú đánh lui, nên sai chau và em cháu chia nhau chặn đường rút khiến cho chúng khiếp sợ mà chẳng dám sang quấy.

- Thế Bộ Lĩnh nay ở đâu?

- Dạ ở ngoài đợi thưa chú!

- Mời vào cho chú.

Nhìn Bộ Lĩnh, Bạch Hổ xúc động đến lạ, cảm giác ấy giống như khi gần Ngô Vương năm xưa, Bộ Lĩnh không còn là một cậu bé, nhưng ánh mắt vẫn sáng như chớp, cái uy dũng của bậc bá vương toát trong từng bước đi. Chia chủ khách ngồi đâu vào đấy, Bộ Lĩnh nói:

- Hai mấy năm không gặp mà Phạm tướng chẳng thay đổi gì vẫn cang cường như xưa.

- Còn cháu thì đã thay đổi nhiều, không còn là đứa trẻ hì hục đào hố bên bờ biển năm xưa nữa, năm đó ta phục quân để bảo vệ cháu mà tim muốn nhảy khỏi lồng ngực. Bây giờ đã là chủ tướng của đạo quân mạnh nhất rồi, nhanh thật.

Hai người ôn hết chuyện xưa, bất giác Bộ Lĩnh hỏi:

- Đất Đăng Châu này có nhỏ quá với Phạm tướng chăng ?

- Ta có chút sức chỉ theo người tài đức làm việc lợi nước ích dân khi cần chứ nào có muốn xưng hùng bá mà đo đất lớn nhỏ.

- Nay nước gặp loạn, Phạm tướng thấy đã đến khi cần chưa?

- Tâm, khẩu ta phục một người từ lâu, cũng một lòng muốn theo, chỉ chờ dịp cho người thiên hạ biết vì sao Bạch Hổ ta lại phục đó thôi.

- Phạm tướng nói xem dịp ấy phải thế nào?

- Ví như Bộ Lĩnh chỉ mang 2 ngàn quân qua đây, còn quân ta có gần một vạn, ta để 5 ngàn giũ thành, mang theo năm ngàn ra nghênh đánh Bộ Lĩnh làm sao cho ta phục.

Lúc đó có lính vào báo:

- Thưa Phạm chủ tướng, ở ngoài có các tướng của Đinh tướng quân là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn xin gặp.

- Mời vào!

Bọn Nguyễn Bồ đi vào thi lễ xong xuôi mới chắp tay thưa với Bộ Lĩnh:

- Biết chủ tướng đến Đăng Châu nên tôi cùng Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn từ Thái Bình qua gặp.

- Các ngươi có mang theo quân không ?

- Thưa, 5 ngàn.

- Quân ấy ở đâu ?

- Thưa, sợ có hiểu lầm nên đóng ngoài đất Đăng Châu, đợi có sự đồng ý của Phạm tướng mới dám qua.


Bộ Lĩnh gật đầu trông qua Bạch Hổ nói;

- Giả như quân của Nguyễn Bồ kéo vào tập hậu năm ngàn quân của Phạm tướng, trước chặn sau đánh riết tới thì phải tính làm sao?

- Ta khi ấy làm hiệu cho quân trong thành ra đuổi theo Nguyễn Bồ, còn mình bỏ mặc quân tập hậu cứ thốc thẳng hướng Bộ Lĩnh mà đánh, Bộ Lĩnh tính làm sao?

- Khi ấy thời phải chạy về phía Tây Phù Liệt.

- Không sợ quân Nguyễn Siêu chặn đánh sao?

- Phạm Hạp, Phạm Cự Lang đã có màn ra mắt với quân Nguyễn Siêu, tất Siêu trong lòng nghĩ rằng chúng ta đã kết liên minh, nay thấy quân tổng cộng gần một vạn năm ngàn kéo đến, tưởng là đến đánh Siêu, đâu biết đang đuổi đánh nhau, Siêu khi ấy nấp trong thành chẳng thấy mặt, nói gì đến chặn đánh.

- Bộ Lĩnh chạy mãi như thế làm sao ta phục?

Lúc ấy lại có lính vào báo:

- Thưa Phạm chủ tướng có tướng Nguyễn Bặc, Lưu Cơ của Đinh tướng quân ở ngoài xin gặp.

Bặc, Cơ vào thì lễ đâu vào đấy, đang định nói thì Bạch Hổ cười lớn :

- Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi.

- Phạm tướng hiểu thế nào?

Bạch Hổ trông qua Nguyễn Bặc hỏi:

- Ngươi mang theo bao nhiêu quân?

- Thưa, ba ngàn quân.

- Mai phục ở đâu ?

- Chúng tôi đâu có ý mai phục gì trên đất ngài, chỉ là theo lệnh chủ tướng cho quân giúp dân gặt lúa hai bên đường thôi.

Bạch Hổ lúc này cười một tràng sảng khoái, mọi người cùng cười theo, nhân lúc vui vẻ Hổ sai người bày tiệc rượu đãi Lĩnh và mọi người. Tiệc xong, Hổ lại cùng Lĩnh và các tướng dạo tên thành, Hổ nói:

- Ngoài Ngô Vương ra, xưa nay người khiến ta tâm phục khẩu phục một lòng muốn theo chỉ có Bộ Lĩnh, hôm nay ta thử Lĩnh cốt để bộ tướng và quân lính của ta cũng một lòng như thế, quân ta có gần một vạn, nay giao cả cho Bộ Lĩnh, thân già này cũng còn chút sức, Bộ Lĩnh cứ sai bảo chớ nề hà, gì chứ bọn Trần Côn ta còn chém được mười đứa.

Giữa mùa hạ năm 967, Phạm Bạch Hổ từ bỏ địa vị sứ quân của mình, theo về với Đinh Bộ Lĩnh, mười hai sứ quân nay chỉ còn tám, quân của Bộ Lĩnh đã lên đến gần 3 vạn, chia nhau đóng ở Hoa Lư, Thái Bình, Đăng Châu, Động Giang, Bình Kiều.

Lại nói Nguyễn Siêu, trấn mãi ở gần Đăng Châu mà mãi chẳng thấy quân họ Phạm qua đánh, lại nghe tin Bạch Hổ đã theo Đinh Bộ Lĩnh thì kinh sợ gọi các tướng đến bàn:

- Tay trái của Lĩnh ở Động Giang, tay phải ở Đăng Châu trước sau gì cũng bóp cổ chúng ta, các người nghĩ nên làm thế nào?

Nguyễn Hiền thưa:

- Quân Lĩnh thế mạnh, trước sau cũng đánh sang ta, chi bằng nhân lúc Lĩnh còn ở Đăng Châu ta bất ngờ đánh sang chiếm các đồn nhỏ gần đất của ta át vía của Lĩnh để phòng trước.

Nguyễn Siêu cho là phải sai Nguyễn Khánh Trí, Trần Côn điểm năm ngàn quân qua đánh các đồn trại nhỏ mới lập của Đinh Bộ Lĩnh ở Đăng Châu.

Tin ấy đến chổ Lĩnh, các tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn đứng ra thưa :

- Chủ tướng, anh em chúng tôi trước giữ Hoa Lư, sau giữ Thái Bình, chưa được xông pha lập công, trong lòng thấy thẹn, nay xin chủ tướng cho chúng tôi lãnh binh đi đánh.

Lĩnh ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Được thôi các ngươi lãnh năm ngàn quân ra đóng chờ quân Trí, Côn khi nào cần đánh ta sẽ cho người đến báo.

Bọn Nguyễn Bồ y lệnh, điểm quân ra đóng lại. Đóng quân được hai ngày thì nghe tin bọn Trí, Côn kéo gần đến, đúng lúc đó có thư của Bộ Lĩnh, thư rằng:

"Ta xem trời sắp trở gió, nay rơm rạ cũng đã khô hết chất đầy đồng, khi địch sắp đến thì sai lính đốt đi, khói theo gió thổi, giặc tất chẳng nhìn xa được phía trước, khi chúng vừa ló khỏi đám khói bụi ấy thì các người đến đánh, chúng bất ngờ tất hoảng loạn mà bại. Giặc chạy, nhớ đuổi hết đất Đăng Châu thì dừng, Nguyễn Siêu sợ ta nên mới đánh phủ đầu đòi ra oai, bên đất hắn chắc đã đắp lũy bày mai phục."

Kế ấy có thành không, xem hồi sau sẽ rõ.

Friday, November 15, 2013

Loạn Thế Lộ Chân Long, hồi thứ 14

Đinh Bộ Lĩnh sau khi đánh được Bảo Đà, Trại Quyền, thế quân của Cảnh Thạc giữ các đồn nhỏ, vỗ an dân chúng trong vùng đâu vào đấy mới họp các tướng ở Trại Quyền tìm cách phá hai thành Động Giang, Thanh Oai. Lúc ấy Cự Lang đứng ra hỏi: 

- Chủ tướng, sao khi trước không nhân lúc Đỗ Cảnh Thạc tan tác thua chạy mà truy đuổi, như thế thì đã phá xong Thạc rồi.

- Ta dẹp loạn chứ không phải chém giết cho được việc, làm sao cho họ phục ta khi ấy dẹp loạn rồi không còn loạn nữa. Nhân đây ta cũng nói các tướng được rõ, khắc ghi trong lòng, khi không cần phải giết thì tuyệt đối không giết, khi hiến kế, dụng kế hay khi phát lệnh tiến công phải chọn cách nào ít người phải chết nhất có thể, thế mới thật người tướng tài.

- Rõ, thưa chủ tướng!

- Ta đã cho người do thám, Cảnh Thạc từ khi về thành Động Giang ở riết trong thành tự thủ lại cho lập các đồn trại liên hoàn từ thành Động Giang đến Thanh Oai. Có hai điểm yếu chúng ta có thể từ đó mà luận kế, thứ nhất là Thạc rất tự tin rằng ta không thể phá được thế phòng thủ liên hoàn, thứ hai là chí Thạc không nhỏ tất ngày đêm chờ phản kích quân ta. Các ngươi xem dùng cách nào để đánh?

Lưu Cơ đứng ra thưa: 

- Thạc trúng kế lần này, trong bụng tất đề phòng, muốn dụ cho ông ta phản kích rồi mai phục thì sẽ rất lâu, nếu có cách để phá thế liên hoàn sẽ nhanh hơn, phá được thế này, lòng tự tin của Thạc không còn, tướng chán thì quân nản, khi ấy ta vây riết, sẽ tự động mà hàng. 

- Lưu Cơ nói đúng lắm. Nói về phá thế liên hoàn, ta đã có một mẹo hay. - Bộ Lĩnh nói -

- Mẹo ấy thế nào thưa chủ tướng? - Phạm Hạp hỏi -

- Đỗ Cảnh Thạc cho rằng lập thế liên hoàn như vậy thì các thành và đồn dễ dàng ứng cứu được nhau, ta tuy quân có đông hơn một chút, nhưng khi vây thành chắc chắn phải giàn quân cần nhiều người, quân Thạc ít hơn nhưng chỉ cần đánh một mặt là có thể giải vậy. Thạc nghĩ thế nên mới tự tin. Nhưng đó chỉ là trong một trận, điểm yếu của thế liên hoàn này ta luận từ chổ quân chi viên ứng cứu luôn mệt nhọc hơn quân vây thành, một trận không sao, nhưng nhiều trận thì khó giữ nổi. Nay ta cứ an nhàn mà đánh, các tướng chia nhau mỗi người lãnh lấy một ngàn quân, thay nhau đến vây thành, thấy quân chi viện của Thạc đến thì rút về nghỉ, cứ thế độ mười ngày thì một trận lớn là phá tan thế trận ấy. 

Các tướng nghe xong ai nấy đều cho là kế hay, Cự Lang liền đứng ra thưa :

- Chủ tướng cho tôi lãnh binh đi đánh trước.

- Được thôi, ngươi lãnh một ngàn quân đi đánh đồn kế thành Thanh Oai, Phạm Hạp lãnh một ngàn quân đi đánh đồn kế thành Trại Quyền, nhỡ kỹ, thấy chi viên ứng cứu liền rút ngay. 

Các tướng y lệnh dẫn binh đi, ngày thứ nhất Phạm Hạp, Cự Lang vây hai đồn, Cảnh Thạc, Cát Lợi đến hai tướng liền rút quân về nghỉ. Ngày thứ hai, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ dẫn quân đi vây hai đồn kế tiếp, thấy quân chi viện lại rút về nghỉ. Ngày thứ ba, Đinh Điền dẫn quân đi, đến vậy đồn thứ ba tính từ Động Giang, lần này khác với các tướng trước, Điền đánh thốc vào chiếm được đồn nhưng khi Cảnh Thạc, Cát Lợi kéo đến lại rút quân về. Đinh Bộ Lĩnh cùng Trịnh Tú đến vây lấy Thanh Oai giữa đêm ngày thứ tư, khi quân các đồn đến ứng cứu lại cho rút về.

Cứ thế, khi ngày khi đêm, khi thành khi đồn, khi vây khi đánh thốc vào, chỉ trong ít ngày quân của Cảnh Thạc vì phải ngược xuôi ứng cứu lẫn nhau mà đã rệu rã, Cảnh Thạc thấy tình hình không ổn liền gửi thư cho Cát Lợi, thư viết: 

"Ta xem tình hình không ổn, cứ thế này chỉ vài ngày nữa quân ta kiệt sức, Lĩnh chỉ cần một trận là ta không đánh cũng tự bại. Tuy nhiên ta để ý rằng Lĩnh và các tướng của hắn đều ở Trại Quyền cả, tất Bảo Đà bỏ không, ngươi nên nhân lúc trời tối kéo đến đánh thốc vào mà chiếm lấy đồn. Lĩnh được tin sẽ kéo đến đòi lại, khi đó ta sẽ dẫn quân đánh tập hậu ắt sẽ chiếm được thượng phong"

Dương Cát Lợi nghe lệnh, điểm binh kéo đến đánh Bảo Đà, đến thành, quả nhiên không có tướng nào trấn giữ, trong thành chỉ khoảng hơn năm trăm quân. Nửa đêm, Lợi đến, quân ở trong ra nghênh đánh, chảng bao lâu không cự được đành phải rút chạy vào thành, Lợi được thế đuổi riết.

Quân của Cát Lợi vào trong thành thì đã thấy cung thủ năm trăm người giương tên đợi sẵn, biết trúng kế, Lợi xua quân quay đầu chạy ra ngoài, vừa chay ra khỏi thành đã thấy ngàn ngọn đuốc vây quanh, trông ra thì là quân của Ngô Nhật Khánh.

Ngô Nhật Khánh từ khi được lời của Bộ Lĩnh, bền chí giữ thành Đường Lâm, quả nhiên chưa đầy bốn ngày quân Cảnh Thạc đang vây riết bỗng bỏ mà đi, Khánh lại nghe lời Bộ Lĩnh không cho quân đuổi theo, tự đó ở mãi trong thành, một hôm có người thư của Bộ Lĩnh đến, thư viết :

"Lần trước ta tiện theo kế hoạch của mình tiến đánh Bảo Đà, vô tình lại giải nguy được cho Đường Lâm của ngươi, tự nghĩ vì đó mà bắt ngươi chịu lệnh ta thì thật không phải, nay ta đem quân đến Trại Quyền hội nhau để đánh quân Cảnh Thạc, Bảo Đà bỏ không tất Cát Lợi ở gần đó sẽ kéo tới, viết thư này phiền ngươi một chuyến đến Bảo Đà bày mai phục đón Lợi, quân trong thành của ta đều đã hiểu mẹo này, chỉ cần ngươi tới tất Cát Lợi chịu hàng mà chẳng mất một binh. Sự ấy thành thì ta và ngươi xem như có nghĩa tương trợ lẫn nhau chớ chẳng phải chủ bộ. Đinh Bộ Linh viết."

Đọc xong Khánh nói với Nhật An: 

- Đinh Bộ Lĩnh muốn ta đem quân đến Bảo Đà mai phục Cát Lợi, em nghĩ nên thế nào ?

- Đinh Bộ Lĩnh, em đã gặp, ông ta thực chẳng tầm thường, nay chỉ một trận mà đoạt hai thành của Cảnh Thạc như lấy đồ trong túi, ta nên thuận theo ý ấy, kẻo vạ vào thân. 

- Anh cũng nghĩ thế, khi viết thư cho Bộ Lĩnh bất đắc dĩ phải nói nếu giải được nguy cho Đường Lâm sẽ theo làm bộ tướng, nay Bộ Lĩnh chẳng truy xét chuyện ấy, thì ta nên y nghĩa tương trợ mà làm.

Ngay ngày hôm sau, Khánh sai An ở lại giữ thành, còn mình lãnh ba ngàn quân đi, đến nơi bày mai phục đợi hai ngày, đến ngày thứ ba thì quả nhiên Cát Lợi mang quân đến, theo kế của Bộ Lĩnh, khi Cắt Lợi đánh vào đồn rồi, Khánh mới đưa quân lại vậy chặn lấy lối ra.

Dương Cát Lợi xua quân ra cổng đồn thì đã thấy quân Khánh ở đấy, tiền quân kẹt trong đồn, hậu quân thì kẹt ở ngoài, tiến lui đều khổ, Lợi nghĩ nếu Bộ Lĩnh đã bày phai phục ở đây tất đã có kế chặn đánh Cảnh Thạc, biết chẳng còn trông gì cứu viện, đành phải xin hàng. 

Lại nói Đinh Bộ Lĩnh, nửa đêm hôm ấy, sai Đinh Điền, Cự Lang, Trịnh Tú, Nguyễn Bặc ở lại giữ Trại Quyền, còn mình cùng Phạm Hạp, Lưu Cơ lãnh hai ngàn quân theo hướng Bảo Đà ruổi ngựa, đi được nửa đường thì nghe có tiếng quân đuổi gấp phía sau, biết là quân Cảnh Thạc, Lĩnh sai từng tốp lính một trăm người dừng lại, chạy thêm được một dặm khi chỉ còn một ngàn quân liền trở hậu quân làm tiền đứng đợi, Thạc đến, Lĩnh trỏ nói: 

- Thạc tướng đi đâu mà vội vàng làm vậy?

- Ta mang đến đấy ba ngàn quân, lại sai hai ngàn quân mai phục phòng chi viện, cốt để lấy mạng ngươi đó. 

- Thạc tướng biết tin gì chưa ?

- Tin gì ?

- Dương Cát Lợi đã hàng ta ở Bảo Đà rồi.

Cảnh Thạc nghe thế thất kinh, nhưng nghĩ trong tình thế hiện tại vẫn đủ sức đánh được Lĩnh nên cười nói:

- Đâu cần Cát Lợi, quân Bảo Đà có đến cứu ngươi cũng không kịp nữa rồi.

- Xem ra Thạc tướng quân ít có thói quen trông ra sau?

Thạc nghe thế, ngoảnh mặt lại đã thấy phía sau cờ xí đèn đuốc ngợp trời, cứ cách hai trượng thì có một ngọn đuốc, Thạc đoán phải đến bốn ngàn quân, trong bụng thầm kêu khổ, chẳng còn tâm trí đâu mà đánh với Lĩnh, thúc quân tháo chạy, một mạch hướng về thành Động Giang.

Lĩnh không đuổi theo, đợi quân Thạc chạy khuất thì kéo nhau đến Bảo Đà. Phần Thạc vừa chạy vừa cảm thấy mình bất lực trước Bộ Lĩnh, ngồi trên ngựa mà hồn phách nơi đâu, về đến Động Giang lại thêm một lần thất kinh, phía trên cổng thành Nguyễn Bặc, Cự Lang đã đứng đợi tự bao giờ. Bặc khiêm nhường nói : 

- Đỗ tướng quân, ngài hà tất phải cố chấp làm vậy, chủ tướng tôi mấy lần dụng kế, chẳng lần nào nhân đó mà xuống tay chém giết, cốt để ngài biết rằng chủ tướng tôi rất trọng tài của ngài đó.

- Ta theo Ngô Vương đánh giặc khi Lĩnh chỉ là đứa trẻ, ta nay chạy vòng trong thiên la địa võng của Lĩnh nhưng chết cũng chẳng hàng, ngươi nói chi phí lời. Ta kính ngươi tài cao lại hào hiệp nay chết trong tay ngươi cũng đặng cười mà đi, xuống đây đánh với ta. 

- Chủ tướng tôi lệnh rằng phải hạn chế đánh giết, quân của ngài đã bao ngày mệt mỏi, lính tôi lại an nhàn, lấy khỏe đánh mệt mỏi tất không ngừng tay sát, tôi không đánh, nay Thanh Oai vẫn còn, ngài nên về đó. 

Thạc chán nản, đến muốn chết cũng chẳng đặng được, lại phải kéo về Thanh Oai, về thành rồi ở mãi trong thành. Chẳng được lâu, quân của Đinh Bộ Lĩnh lại kéo đến vây riết, trong một tháng chỉ chặn đường tiếp lương mà không đánh vào, Trịnh Tú kêu gọi quân Thạc ra hàng, quân ấy biết chẳng thoát được nên ra hàng ngày mỗi nhiều, Thạc cũng không ngăn giữ. 

Đầu mùa xuân năm 967, biết chẳng xoay chuyển được Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh lệnh cho các tướng hạ thành Thanh Oai lúc này chỉ còn khoảng hơn một ngàn quân, Cảnh Thạc trúng tên chết trong đám hỗn chiến, sứ quân Đỗ Cảnh Thạc mất từ đó. Đinh Bộ Lĩnh với 1 vạn binh cả hành quân lẫn vây đánh mất gần 6 tháng thì hạ được 1 vạn năm ngàn quân của Cảnh Thạc, phá được 4 thành lớn và trên dưới 10 đồn nhỏ, thu được hơn năm ngàn hàng binh. Quân Cảnh Thạc thương vong gần một ngàn, số còn lại hoặc theo Lĩnh hoặc tản mát đi hết, Cát Lợi được Lĩnh tha cũng xin về quê, hứa rày chẳng động binh.

Lĩnh lấy được toàn bộ đất Động Giang rồi, vừa an dân vừa cho sửa sang lại thành lũy đồn trại, lập thế phòng thủ, đến cuối xuân thì xong xuôi mọi việc. Lúc ấy Đinh Bộ Lĩnh mới họp các tướng, định kế hoạch tiếp theo, các tướng vào ngồi đâu đấy, Lĩnh nói: 

- Ta xem sau Đỗ Cảnh Thạc, 3 anh em Nguyễn Siêu là đáng gờm nhất, quân này đóng 3 nơi tạo thế chân vạc, gần đây lại càng lớn mạnh thướng đánh lấn ra ngoài. Trọng 3 đạo, Nguyễn Siêu là mạnh nhất, phá được Nguyễn Siêu thì thế chân vạc không còn, 2 sứ kia không cần lo nghĩ.

Lưu Cơ đứng ra nói: 

- Nguyễn Siêu giữ đất Tây Phù Liệt, đất này nằm giữa đất Động Giang của ta và Đăng Châu của Phạm Bạch Hổ, muốn hạ Siêu, trộm nghĩ nên thu phục Phạm Bạch Hổ trước, sau đó tạo thế gọng kìm. 

- Phải lắm Lưu Cơ, ấy cũng là sở ý của ta. 

Lúc đó Nguyễn Bặc chắp tay nói: 

- Tôi hai lần ra gặp Phạm Bach Hổ đều nghe ông ấy nói ngoài Ngô Vương chỉ có chủ tướng đáng cho ông ấy theo, nay tôi lại xin đến Đăng Châu đem ý của chủ tướng mà nói, chắc ông ấy chịu.

Bộ Lĩnh chưa trả lời, Phạm Hạp, Phạm Cự Lang thưa thêm :

- Chủ tướng cho chúng tôi cùng theo Nguyễn Bặc tướng quân, Phạm Bạch Hổ vốn là chú của hai anh em tôi, lời chúng tôi nói tất ông ấy lấy làm nghĩ.

Đinh Bộ Lĩnh cười nói: 

- Các ngươi không hiểu tính của Bạch Hổ rồi, ngày xưa Bạch Hổ đem quân đến Thuận Thành một đao lấy đầu Kiều Công Tiễn rồi bỏ đi ngay trước mặt Dương Tam Kha, Ngô Xương Ngập, về sau khi Ngô Vương lập chí đánh Hán, đòi tự chủ lại cho nước Nam ta, Bạch Hổ mới theo về. Ngô Vương hỏi sao trước bỏ đi sau lại theo về, Bạch Hổ đáp rằng "Khi đó ta biết tài của anh mà chưa biết chí của anh, nay biết rồi nên ta theo về.". Nói vậy để các ngươi biết dùng lời hay để Bạch Hổ chịu giúp thì được, nhưng lời nào cũng vô dụng nếu muốn Bạch Hổ chịu theo.

Muốn biết Đinh Bộ Lĩnh dùng cách nào thu phục Phạm Bạch Hổ xem hồi sau sẽ rõ.











Wednesday, November 13, 2013

Loạn Thế Lộ Chân Long, hồi thứ 13

Nhờ sự giúp đỡ của Chân Lưu đại sư, Đinh Bộ Lĩnh từ đất Thái Bình xuôi về Ái Châu và nhận được sự ủy thác việc nước của Ngô Xương Xí, vua cuối của Nhà Ngô, tin ấy lan truyền đi rất nhanh, Đỗ Cảnh Thạc nhận được tin là giận dữ nhất. Thạc nói với bộ tướng:

- Đinh Bộ Lĩnh đã nhanh hơn ta một bước rồi. Thật đáng giận!

- Xương Xí đã không còn là vua, lại chỉ có một ít quân, sao chủ tướng phải tức giận như vậy ?

- Các ngươi biết một mà chẳng tỏ hai, ba. Đinh Bộ Lĩnh có được Bình Kiều thì coi như Ái Châu, Hoan Châu, Nhật Nam đều trong tay hắn, lại nữa hắn nhận được ủy thác của Xương Xí thì trong mắt thiên hạ hắn là kẻ dẹp loạn, chúng ta là phản loạn rồi.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì?

- Ngô Nhật Khánh đóng ở Đường Lâm là dòng dõi họ Ngô, hắn dấy binh cũng mong phục hồi cơ đồ họ Ngô, Đinh Bộ Lĩnh có lời của Xương Xí, chúng ta cũng phải có lời của Nhật Khánh. Mau điểm 5 ngàn quân tiến ra Đường Lâm.

Đỗ Cảnh Thạc đem 5 ngàn quân đến vậy riết lấy thành Đường Lâm của Ngô Nhật Khánh. Ngô Vương và cha mình là Ngô Mân trước thay nhau làm hào trưởng Đường Lâm, sau khi Ngô Vương theo lệnh Dương Đình Nghệ vào giữ đất Ái Châu thì cha của Ngô Nhật Khánh lên làm hào trưởng về sau truyền lại. Nhà Ngô mất ngôi, Nhật Khánh mộ quân xây thành đắp lũy cát cứ, nhưng vì thế còn yếu chưa dám đánh ra ngoài, bởi tây có Kiều Công Hãn, nam có Cảnh Thạc đều là những sứ quân mạnh.

Nay tình thế cấp bách, Ngô Nhật An em của Khánh nói:

- Quân Thạc thế mạnh, quen chinh chiến, ta đánh không lại, bị vậy riết cũng đến ngày lương thảo cạn, ngồi chờ chết chi bằng để em liều mình phá vòng vây tìm chi viện.

- Ai chẳng kiêng dè Thạc mà chịu giúp chúng ta đây?

- Đinh Bộ Lĩnh hiện đang ở Ái Châu, dân gian vốn truyền tụng ông ta là Vạn Thắng Vương, vừa rồi lại được vua ủy thác cho việc nước, ta nên tìm đến.

- Được để anh thảo thư gửi ông ta.

Đêm đó, canh 3, Ngô Nhật An mở cổng thành phía Bắc cùng 100 người phá vòng vây chạy ra ngoài sau đó quay lại theo hướng Ái Châu, ngựa người ngày đêm không nghỉ. Vừa ra khỏi đất kinh đô thì thấy một đại quân đang nhằm hướng ngược lại kéo đến, An nhìn cờ xí biết là quân Đinh Bộ Linh thì mừng lắm, bèn xuống ngựa quỳ giữa đường chắn lối, hai tay nâng thư qua đầu.

Lính mang thư ấy cho Bộ Lĩnh xem, thư viết:

"Tôi Ngô Nhật Khánh lâu nay đóng quân giữ đất Đường Lâm, vừa rồi nghe tin anh tôi là Ngô Xương Xí có ủy thác việc nước cho Đinh tướng, tôi có lòng muốn đem quân đên hội một lòng muốn phò giúp, chẳng ngờ binh chưa kịp điểm, Đỗ Cảnh Thạc đã kéo ra vây riết lấy thành, thư này nhờ mở đường máu mà tới được, tướng quân xem thư xin một tay cứu giúp, thoát hiểm này sẽ xin theo dưới trướng sinh tử chẳng sờn"

Lĩnh xem xong cười, nói với Nhật An:

- Ngươi là em của Nhật Khánh ?

- Thưa, đúng !

- Ngươi về nói với anh ngươi cứ bền chí mà giữ, chưa đầy 4 ngày nữa Đỗ Cảnh Thạc khắc rút quân, quân Thạc rút thì chớ đuổi theo ở thành đợi thư của ta.

Nhật An được lời tức tốc quay về, còn Bộ Lĩnh hội các tướng lại nói :

- Tình hình có chút thay đổi, Ngô Nhật Khánh bị Cảnh Thạc vây ở Đường Lâm gửi thư cầu viện quân ta, vậy nên kế hoạch sẽ có chút thay đổi. Lưu Cơ, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lang mỗi người lãnh một ngàn quân, hai ngày nữa chia nhỏ ra mà tiến, đi về mạn bắc Động Giang, đang đêm chia ra đông, tây, nam, bắc vây đánh thành Trại Quyền, nhớ là phải thật bất ngờ và hạn chế chém giết, ta cùng Đinh Điền, Trịnh Tú ngay bây giờ sẽ tiến đánh đồn Bảo Đà ở mặt Nam.

Chia quân xong, bọn Nguyễn Bặc hạ trại đóng quân tại chổ, còn Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Trịnh Tú dẫn hơn sáu ngàn quân tiến đánh Bảo Đà, quân đến nơi Lĩnh cho hạ trại cách đồn khoảng hai dặm, sai Đinh Điền dẫn một ngàn quân đến khiêu chiến.

Trong đồn khi ấy có khoảng hơn 3 ngàn quân, tướng trông đồn là Đỗ Kiên thấy thế mình mạnh hơn liền dẫn quân ra nghênh đánh với Đinh Điền, thấy quân ra Điền quát:

- Đỗ Cảnh Thạc đâu, gọi ông ta ra đây đánh với Đinh Điền ta !

- Đinh Điền, có Đỗ Kiên ta tiếp ngươi đây !

Kiên vừa dứt lời, Đinh Điền đã tế ngựa đến sát vung đao bổ xuống đầu Kiên, Kiên hai tay đưa ngang cán thương lên đỡ được, Điền nhanh như chớp xoay cổ tay chém mạnh từ dưới lên, Kiên không kịp trở thương bay ra khỏi tay, Đinh Điền kề đao vào cổ Đỗ Kiên nói :

- Ngươi cho lui binh, vào thành nói với Đỗ Cảnh Thạc, hai ngày nữa đích thân chủ tướng ta sẽ đến lấy đồn này.

Kiên khi ấy thất kinh mặt tái nhợt, lắp bắp quát lính lui vào, lính lui vào hết, Điền buôn đao xuống, Kiên mới hoàn hồn quay ngựa chạy như ma đuổi. Vào trong đồn, Kiên liền sai người đến báo cho Đỗ Cảnh Thạc.

Cảnh Thạc khi ấy còn vậy ở Đường Lâm thì có lính đến báo:

- Thưa chủ tướng, quân của Đinh Bộ Lĩnh kéo ra đang vây ở Bảo Đà, tướng Đỗ Kiên nhắn ngài đưa quân về giải nguy gấp.

- Đinh Bộ Lĩnh à ? Có khoảng bao nhiêu quân ?

- Thưa khoảng 6 ngàn quân.

- Được rồi ngươi về báo với Đỗ Kiên ta sẽ về chi viện, hai ngày sau khi Đinh Bộ Lĩnh đến, đóng cửa đồn tuyệt đối không ra đánh, ta sẽ đốt lửa làm hiệu, khi ấy hãy kéo hết ra.

Ngày hôm đó, y hẹn, Đinh Bộ Lĩnh kéo quân đến trước Bảo Đà, Đô Kiên khi ấy đứng trên cổng đồn trông xuống, Lĩnh trỏ Kiên nói :

- Cảnh Thạc sợ ta chăng, sao không dám ra đánh?

- Chủ tướng ta đang điểm binh, ngươi cứ đợi đấy !

Quân Lĩnh đợi mãi không thấy mở cổng thành, lại thấy phía sau cách hai dặm có cột khói bốc lên, lúc ấy có đạo quân từ đâu trổ ra tiến về phía Đinh Bộ Lĩnh, trông ra thì là quân của Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh lệnh cho hậu quân đổi thành tiền quân kéo lại đánh với quân Cảnh Thạc. Hai quân giáp nhau, Lĩnh nói :

- Đỗ tướng quân sao không hàng đi cho sớm ?

- Người nói câu ấy là ta mới phải. Ngươi trông ra sau xem ?

Lĩnh trông ra sau đã thấy Đỗ Kiên dẫn binh từ cổng đồn kéo về phía mình, thấy thế quân bị chặn trước đuổi sau, bất chợt Lĩnh ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Lại phiền Đỗ tướng quân trông ra sau

Cảnh Thạc ngoái đầu đã thấy hậu quân của mình bị xáo trộn, tự đâu quân của Đinh Điền kéo tới đánh riết. Bộ Lĩnh hạ lệnh tiến quân, chẳng mấy chốc quân của Cảnh Thạc bị vây kín, đội hình rối loạn, Cảnh Thạc ra sức đánh cốt chờ cho Đỗ Kiên kịp kéo đến giải vây, nào ngờ trông qua đã thấy quân Đỗ Kiên cũng rối loạn không kém.

Thì ra là Đỗ Kiên bị Trịnh Tú đánh tập hậu, mải đuổi theo Đinh Bộ Lĩnh mà đầu chẳng cứu được đuôi, quân sỹ hoảng hốt chạy tán loạn, Kiên quay ngựa đánh với Tú, chưa kịp lại gần đã bị lính của Tú đâm một giáo vào bụng ngã ngựa mà chết.

Kiên chết, quân sỹ càng như ong vỡ tổ, Cảnh Thạc biết chẳng còn trông gì, liều mình đánh thốc ra vòng vây mở đường máu. Cảnh Thạc tuy đã 50 tuổi nhưng uy dũng vẫn hơn người, lại trong lúc tìm cái sống đánh bạo, lính của Bộ Lĩnh không còn giữ được vòng vây để Thạc thoát ra ngoài.

Quân của Thạc chết phân nửa, theo Thạc thoát vây được khoảng 5 trăm quân, còn lại đều xin hàng. Thạc ruổi ngựa không nghỉ chạy đến Trại Quyền, vừa đến đã thấy trên thành cắm cờ của quân Đinh Bộ Lĩnh.

Không ngờ, đúng đêm mà Thạc lo bày mai phục đối phó Đinh Bộ Lĩnh ở Bảo Đà thì ở Trại Quyền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Phạm Hạp, Cự Lang đã âm thầm bao vây tứ phía, Nguyễn Bặc bên đông, Phạm Hạp bên tây, Lưu Cơ mạn bắc, Cự Lang mạn nam, đúng canh 3 theo hiệu của Nguyễn Bặc nhất tề đánh vào thành. Quân trong thành trở không kịp chống cự yếu ớt rồi phải xin hàng, hơn hai ngàn quân bị bắt giải ra cổng thành, Nguyễn Bặc đứng trên cổng nói xuống :

- Các ngươi ai chịu theo chủ tướng ta là Đinh Bộ Lĩnh thì đi vào thành, còn như ai không theo có thể về nhà hoặc đóng lại ngoài thành độ đến chiều mai chủ tướng của các ngươi tất kéo đến, ta tuyệt đối không trái lời mà giết.

Bặc nói xong, gàn nửa lính ấy kéo nhau vào thành, số còn lại ra xa thành khoảng 1 dặm đóng lại chờ Đỗ Cảnh Thạc. Chiều hôm sau, Thạc khi ấy phá được vòng vây của quân Lĩnh ruổi ngựa một mạch đến Trại Quyền, biết chẳng thể cứu vãn  đành thu tàn quân định kéo về thành Động Giang. Thạc vưa lên ngựa, kéo cương quay đầu thì nghe tiếng Nguyễn Bặc gọi :

- Đỗ tướng quân, chớ vội đi !

- Thế nào, ngươi muốn đánh với ta chăng ?

- Đêm qua, tôi đã hứa không đuổi tận giết cùng, nay đâu thể trái lời, chỉ có đôi lời muốn nói cùng Thạc tướng quân thôi.

- Nói thử ta nghe ?

- Thạc tướng vừa đôi mươi đã theo Ngô Vương đánh giặc lập nhiều chiến công, sau lại vì nhà Ngô hợp quân phế Dương Tam Kha, những công đức lớn lao như vậy thật khiến người ta khâm phục. Vì sao vậy? vì đó đều là vì nước vì dân. Nay nước chia năm sẻ bảy, Thạc tướng cũng có phần, nhưng đó đâu phải vì nước. Chủ tướng tôi sức đủ, danh thuận, một lòng muốn thống nhất để muôn dân được yên. Thạc tướng nên lấy đó làm điều phải nghĩ.

- Nguyễn Bặc! Ta nghe võ nghệ ngươi chẳng kém Phạm Bạch Hổ, không ngờ miệng lưỡi cũng khá lắm, có điều ngươi nên biết, Kiều, Dương, Ngô, Đỗ là tứ trụ của nước gần trăm năm qua, Kiều, Dương, Ngô đã thay nhau trên ngôi cao, nay nhà Ngô tàn, cũng đến lúc họ Đỗ ta thay rồi, chí ấy ta đã lập, thuyết phục chi vô ích. Ngươi với Bạch Hổ đánh trăm hiệp chẳng thắng thua, nhưng chưa chắc ngươi cản được ta đâu.

- Tôi nào có ý ấy, mời Thạc tướng!

Nguyễn Bặc nói rồi tế ngựa vào thành, Thạc nhìn theo chợt nghĩ "nếu sự ta không thành, là vì ta không có được như người như Nguyễn Bặc đó thôi", được một lát cũng quay lưng dẫn quân về Động Giang. Ở đất của mình, Cảnh Thạc vốn cho xây nhiều thành lũy, đồn trại trong đó Trại Quyền, Động Giang, Bảo Đà, Thanh Oai là bốn thành lớn, Dương Cát Lợi giữ ở Thanh Oai, Thạc giữ ở Động Giang nay Trại Quyền và Bảo Đà đã bị Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm, quân số hơn một van năm ngàn giờ chỉ còn bảy tám ngàn, biết mình đã rơi vào thế yếu, về đến thành vội cho gọi Cát Lợi đến nghị sự. Thạc nói :

- Bộ Lĩnh quả một bụng quỷ kế khiến ta rơi vào thế yếu ngay trên đất của ta, ngày tước ta cữ ngỡ là cái khôn vặt của trẻ ranh. Nào ngờ. Nay chỉ còn cách phòng thủ chờ cơ hội phản công mà thôi, Cát Lợi có ý gì hay không ?

Cát Lợi đáp:

- Tôi xem Đinh Bộ Lĩnh là kẻ đa mưu, các bộ tướng của hắn cũng chẳng phải hạng vừa, 2 thành chúng ta vốn xa nhau thể nào cũng bị Lĩnh dùng kế mà đoạt lấy một. Chi bằng rút quân hết ở các đồn khác, về lập thế liên hoàn trên trục giữa hai thành, cứ hơn 10 dặm thì lập một đồn, các đồn và thành cứu nhau khi bị vây đánh, Lĩnh phá không được tất nản, khi ấy ta tìm cơ hội mà đánh trả.

Thạc vỗ đùi cười :

- Kế thật hay, ta sẽ cho làm ngay.

Đỗ cảnh thạc cho quân từ các đồn trại nhỏ khác rút về hết, lại sai trên đường từ thành Động Giang đến thành Thanh Oai cứ cách 5 dặm thì lập một đồn, cả thảy được 6 đồn như thế, tạo thế liên hoàn.

Về phần Bộ Lĩnh, sau khi đánh được Bảo Đà, Trại Quyền, thế quân của Cảnh Thạc giữ các đồn nhỏ, vỗ an dân chúng trong vùng đâu vào đấy mới họp các tướng ở Trại Quyền tìm cách phá hai thành Động Giang, Thanh Oai

Muốn biết Bộ Lĩnh dùng kế gì phá thế liên hoàn của Cảnh Thạc và Cát Lợi, xem hồi sau sẽ rõ.


Tuesday, November 12, 2013

Loạn Thế Lộ Chân Long, hồi thứ 12

Được cả ba con ủng hộ, cuối mùa xuân năm 966, Trần Lãm gả con gái mình là Trần Nương cho Đinh Bộ Lĩnh, lại đêm binh quyền giao cho cả. Mười hai sứ quân chỉ còn lại mười một, quân số dưới trướng của Lĩnh đã lên tới một vạn năm ngàn, Lĩnh bèn cho quân xây phòng tuyến phòng thủ ở đất Thái Bình. Lưu Cơ trong lòng vì thế có chổ thắc mắc, nhân lúc có Bộ Lĩnh và các tướng đông đủ liền đem ra hỏi:

- Chủ tướng đã lập chí thống nhất đất nước, nay mười hai sứ chỉ mới thu phục được một sao đã vội cho xây đắp phòng tuyến ngỡ như đã an phận nơi đây, đấy là dụng ý gì ?


- Lưu Cơ, ông phải biết dẹp loạn khác lắm với xưng hùng xưng bá, như ta nói khi trước người dẹp loạn cốt mong thái bình ra ơn trăm họ, bởi vậy đánh càng nhanh càng tốt, muốn nhanh thì đánh tới đâu phải vững tới đó, muốn vững trước phải an dân sau phải phòng thủ tốt. Gần đất này có Phạm Bạch Hổ, Lý Khuê, Lã Đường, chỉ riêng Phạm Bạch Hổ không đáng lo, còn các sứ kia ta đem quân đánh họ được, tất họ mang quân đánh ta được, đặp phong tuyến này cốt cho các sứ chẳng có ý ấy, nếu không cứ giằng co mãi, khi nào mới yên. - Bộ Lĩnh đáp -


Phạm Cự Lang khi ấy đứng ra chắp tay hỏi :


- Thưa chủ tướng, sao có lòng đề phòng như vậy lại không nhân quân ta thế lớn mà tiến đánh bọn Lý Khuê, Lã Đường ?


- Câu hỏi rất hay, các tướng nghĩ thế nào ?


Phạm Hạp đáp :


- Nếu ta đánh bọn ấy bây giờ, tất động đến Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu vốn đóng ở gần đấy và các sứ khác, khi ấy họ sẽ liên kết với nhau để chống ta, ta làm sao cự. Lý Khuê, Lã Đường chỉ là sứ nhỏ ta đánh lúc nào chẳng được, nhưng nay muốn đánh nhanh và vững như chủ tướng nói trộm nghĩ phải đánh các sứ lớn trước. 


Trịnh Tú nói thêm: 


- Trong mười một sứ, ngoài 3 anh em Nguyễn Siêu, 2 anh em Kiều Công Hãn thì Nguyễn Siêu và Cảnh Thạc đều có gốc gác phương Bắc, Công Hãn và Cảnh Thạc trước từng cùng nhau theo Ngô Vương đánh giặc, khi bí thế có thể vì những mối liên hệ ấy mà kết với nhau. Trước sau gì chúng ta cũng phải phu phục hết, nhưng chọn đánh trước sau cho khéo là điều phải nghĩ bàn nhiều. 


- Hai người nói đúng lắm, trước sau gì cũng phải thu phục hết các sứ, nhưng chọn đánh trước sau phải thật khéo, tránh họ liên kết với nhau sẽ khó càng thêm khó. - Bộ Lĩnh nói lại -


- Thế bây giờ ta nên đánh vào đâu ? - Phạm Cư Lang lại hỏi -


- Cái đó các ngươi đợi thêm độ một tháng nữa sẽ có câu trả lời. 


Các tướng ai nấy đều đã hết chổ nghi, chia nhau chỉ đạo quân xây đắp phòng tuyến, chẳng mấy chốc mà xong, phòng tuyến ấy nằm ở mạn Tây Bắc đất Thái Bình, cốt để ngăn quân Lý Khuê, Lã Đường, mặt Tây để trống thông với đất Đăng Châu của Phạm Bạch Hổ. Đinh Bộ Lĩnh lại sai Đinh Điền về Hoa Lư lệnh cho Đinh Liễn đem quân đến hội.


Đinh Liễn nghe lệnh cha, cùng các tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn mang thêm 3 ngàn quân đến Thái Bình. Lúc này quân số của Lĩnh đã lên đến gần 2 vạn, lại có đủ mặt các tướng khí thế rất mạnh, đã sẵn sàng chô một cuộc chinh phạt. 


Ấy là vào một ngày giữa mùa hạ năm 1966, Đinh Bộ Lĩnh đang nghị sự cùng các tướng thì lính vào báo có người mang thư của Chân Lưu đại sư tới.


***


Chân Lưu đại sư từ khi từ giã Đinh Bộ Lĩnh ở Đại La, thì một mình đi về đất Bình Kiều, Ái Châu tìm gặp Ngô Xương Xí. Xương Xí từ ngày bỏ ngôi về đất Bình Kiều cũng ra sức chiêu mộ binh lý mong một ngày khôi phục lại nghiệp họ Ngô, nhưng vì sức chưa đủ nên ngồi yên chưa dám động binh. Ngô Xương Ngập sinh Ngô Xương Xí thì lúc đó Ngô Xương Tỷ đã quy y cửa Phật, Xí về sau được nghe kể lại rằng trong những đứa cháu thì Ngô Xương Tỷ giống với ông nội là Ngô Vướng nhất, mặt mũi khôi ngô, tư chất thông minh, tính tình khoáng đạt, nay biết anh mình từ Đại La tìm đến thì mừng lắm.


Xí đón anh rất trọng, an bài chổ nghỉ ngơi chu đáo, bụng Xí muôn chờ cơ hội để xin với anh đứng ra giúp phục nghiệp nhà mình. Hôm ấy, Xí mời sư ra chính điện, Xí khóc mà rằng :


- Em nghe cha kể, xưa ông nội cũng từ điện này mà phát lệnh cho các tướng ra Đại La diệt lấy phản loạn, từ đó mở đường cho đại nghiệp về sau. Nay vì em hèn yếu mà đại nghiệp ấy có thể mất, giờ hối chẳng biết còn kịp không.


- Em biết đại nghiệp của ông là gì không ?

- Đánh đuổi giặc Hán, đòi lại quyền từ chủ cho nước Việt sau suốt gần ngàn năm, ra ơn tạo phúc cho trăm họ.


- Nước Việt có sẽ mãi còn, trăm họ bây giờ và sau này chẳng quên ơn, sao em nói đại nghiệp có thể mất ?


Xí im lặng, sư lại nói tiếp :


- Giả như em lại ngồi vào ngôi, giặc tràn em chẳng đủ sức giữ, dân khổ em không đủ tài cứu khi ấy đại nghiệp của ông mới mất vào tay em. Ông chúng ta từ chổ này phát lệnh tiến ra Đại La, từ Đại La bàn kế giữ nước, ở Bạch Đằng cùng dân lui giặc, rồi lại về Cổ Loa nối nghiệp các vua trước tạo phúc muôn dân, có chút nào là vì họ Ngô đâu sao em lại chấp đắm như vậy ?


- Thế anh bảo em nên làm sao ?


- Trong nước nay có loạn, em nên tìm người tài đức vẹn đôi bề mà phó thác, như vậy là em đã làm cho đại nghiệp của ông được mãi hoài, ấy là công chứ chẳng phải tội.


- Vậy anh nói em nên phó thác cho ai ?


- Người biết đường tìm đến em trước nhất là người nắm được tiên cơ, kẻ biết nắm tiên cơ là kẻ có tài vậy.


Xương Xí chịu nghe, từ bỏ ý định tiến ra Cổ Loa, từ đó cũng theo Chấn Lưu đại sư thưa hỏi Phật Pháp, chỉ đợi người tới để phó thác việc nước.

****

Lại nói chuyện Đinh Bộ Lĩnh, khi nghe tin có người của Chân Lưu đại sư tìm đến, Lĩnh cười nói với các tướng :

- Cuối cùng đã đến rồi - Lại trông qua người lính báo tin nói - Ngươi ra mời người ấy vào ngay !


Người vào chỉ là một thanh niên trạc tuổi Đinh Liễn, mặt rộng, trán cao, mắt lanh lợi, người ấy thi lễ rồi thưa :


- Thưa Đinh tướng quân, tôi là Lê Hoàn, từ Ái Châu ra đây mang theo thư của Chân Lưu đại sư gửi cho ngài !


- Thư ấy đâu, đưa ta xem ?


Lê Hoàn chỉ tay vào mình nói:


- Thư ấy ở đây thưa Đinh tương quân.


Bộ Lĩnh biết ý, mỉm cười, sai Đinh Liễn dẫn Lê Hoàn đi đến chổ nghỉ. Hoàn, Liễn đi rồi các tướng mới hỏi :


- Thế là ý gì thưa chủ tướng?


- Nghĩa là thấy người thấy thư biết sự đã thành. Trước đây ta nói chuyện với đại sư ở thành Đại La có ngầm nói cho sư chổ khó của mình, sư nhận giúp ta, hẹn 3 tháng sau có kết quả, nay y hẹn mà đến.


- Chổ khó ấy là gì - Phạm Hạp -


- Đấy chính là chổ khi trước ở Cổ Loa ngươi hỏi mà ta chưa tiện nói, lúc xây đắp phòng tuyến ta nói các người đợi một tháng nữa sẽ trả lời việc tiến quân đi đâu cũng chính là đợi chổ ấy được gỡ. Ngô Xương Xí là vua nối Nam Tấn Vương, là hậu của Ngô Vương, trong lòng người ít nhiều còn trông vào đấy, ta dùng binh đánh, hay dùng kế dụ hàng không phải không được nhưng đều có chổ chưa thuận. Nay cửa Bình Kiều đã mở, dạ Xương Xí đã được an, chúng ta nên sớm tìm đến.


Mùa hạ năm 966, Đinh Bộ Lĩnh sai Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn, Trần Thăng, Trần Thái ở lại giữ đất Thái Bình, còn mình cùng với Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Phạm Hạp, Phạm Cự Lang, Đinh Liễn điểm một vạn quân xuôi về Ái Châu.   


Đại quân đến Bình Kiều, Lĩnh cho quân đóng cách thành năm dặm, còn mình cùng các tướng tế ngựa đi, đến nơi, thấy cổng thành mở toang, không một bóng lính canh, Bộ Lĩnh bảo Lê Hoàn vào báo. Ngô Xương Xí và sư Chân Lưu đứng trên thánh trông xuống, Xí nói:


- Người ấy có phải Đinh Bộ Lĩnh ?


- Đúng thế !


- Cả chủ tướng lẫn bộ tướng ai nấy đều uy dũng hơn người, năm phụ vương mất chính người này hiến kế giúp cho Ái Châu, Hoan Châu được yên, các sứ quân không dám dấy binh, Tấn Vương chăm chính sự. Nay ông ta đến thì đúng người rồi. 


- Ta đi thôi - Sư bình thản nói -

Chân Lưu đại sư và Ngô Xương Xí đi đến chính điện, cả hai cùng ngồi bên trái, để trống hàng ghế phải và ghế chủ nhà. Lê Hoàn vào báo tin xong quay trở ra mời Bộ Lĩnh, Lĩnh sai bỏ ngựa lại, đi bộ vào.

Lĩnh vào thi lễ xong chia nhau ngồi đâu vào đấy, Xương Xí sai người bày trà ra tiếp, rồi hỏi : 

- Tôi sinh sau, danh của Đinh tướng quân xưa nay đã nghe, giờ mới được gặp, còn các vị đây thế nào, xin Đinh tướng quân nói rõ.

Bộ Lĩnh trỏ từng người nói:

- Nguyễn Bặc là người thẳng thắn hào hiệp, võ nghệ tinh thông, giỏi chỉ huy chiến trân.  Đinh Điền là người thật thà trung nghĩa, sức đọ muôn người, can đảm xông pha. Lưu Cơ là người đa mưu túc trí, giỏi bày binh bố trận. Trịnh Tú, chu đáo trong ngoài, giỏi việc ngoại giao. Hai người này là Phạm Hạp, Phạm Cự Lang, đều là cháu của Phạm Lệnh Công ở Nam Sách, văn võ đều trọn. 


Xương Xí nghe xong, hỏi tiếp:

- Xưa nay đã nghe danh Vạn Thắng Vương mà dân gian truyền tụng, biết rằng Đinh tướng quân giỏi việc dụng binh, nay tôi muốn biết Đinh tướng dùng đạo gì mà khiến cho dân chúng đất Hoa Lư ngày càng yên ấm như thế ?

- Cũng không khó, cũng không dễ, chỉ cần lắng nghe không chỉ bằng tai, làm những gì trăm họ cần và cần cho trăm họ là được rồi. 

- Bấy lâu nay tôi ở đất Bình Kiều này cốt chỉ để chờ Đinh tướng quân, nay dẫu cho hơi đường đột cũng xin có một thỉnh cầu mong được chấp nhận.


- Xin cứ nói !
- Vậy trước hết mời Đinh tướng ngôi lên ghế trên rồi tôi sẽ thưa !


Nói xong trỏ vào ghế trên, Bộ Lĩnh khi ấy chưa biết nên thế nào cho phải, trông qua sư Chân Lưu thấy sư gật đầu, bèn thuận tình ngồi vào. Lúc đó Xí mới nói tiếp :

- Tôi nối ngôi Tấn Vương, có phước được làm vua nhưng tài hèn đức mỏng chẳng thể giữ được phải bỏ ngôi mà về đây, vốn cũng có lòng chiêu binh lấy lại ngôi nhưng tự lượng sức biết đấy chỉ là việc vô vọng. Nay Đinh tướng quân là bậc phi phàm, đạo dùng binh hay đạo trị nước đều thấu suốt, lại có những người tài như các tướng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú, Phạm Hạp, Cự Lạng đây giúp sức, ghế ấy chính là chổ ngày xưa Ngô Vương phát lệnh tiến ra Đại La, xin Đinh tướng quân hãy cũng ở ghế này phát lệnh tiến quân thống nhất đất nước, ra ơn trăm họ, giúp tôi làm cho đại nghiệp của Ngô Vương ông tôi được mãi hoài. Đinh tướng quân nhận lời thì từ nay về sau tôi mới chẳng thẹn với ông tôi và trăm họ.

Chân Lưu đại sư khi ây nói thêm:


- Xưa nay bậc Chuyển Luân Thánh Vương luôn vì hằng hà sa chúng sanh mà chẳng do dự. Thế chủ cũng nên như vậy, thấy điều lợi dân nước chớ nề hà tiểu tiết.

Bộ Lĩnh khi ấy mới đáp:

- Tôi vốn đã sẵn lập chí như vậy, nay nhận được ủy thác này sẽ tận sức mà làm. Chẳng hay về sau ngài tính thế nào ?

- Nay tôi giao toàn bộ binh quyền đất Bình Kiều này lại cho Đinh tướng quân, còn tôi mấy ngày qua theo anh tôi thưa hỏi Phật Pháp cũng đã phát tâm Quy y Tam Bảo, xếp đặt xong mọi sự chúng tôi sẽ cùng về chùa Khai Quốc. 

Cuối mùa Hạ năm 966, Ngô Xương Xí giao toàn bộ binh quyền và đất Bình Kiều cho Đinh Bộ Lĩnh, cùng anh lên đường về chùa. Ngày Xí và sư đi, Bộ Lĩnh có ý giữ lại ít lâu như sư nói:

- Kẻ tu hành đến đi tự tại, thế chủ chớ giữ.

- Thưa thầy, thầy còn điêu chi muốn dạy con không?

- Lá thư ta gửi vốn chẳng tầm thường, sau này hãy khéo sử dụng. - Nói xong sư đi.-

Sư và Xương Xí đi rồi, Bộ Lĩnh sai Trinh Tú vỗ an dân chúng, đất Ái Châu vốn trước kia các hào trưởng vì Lĩnh mà thuận Tấn Vương, giờ Lĩnh tiếp quản cũng đều vui vẻ. Xếp đặt xong xuôi, Bộ Lĩnh họp các tướng lại bàn kế sách tiến quân ra phía Bắc.

- Bây giờ lực đã đủ, danh đã thuận cũng là lúc chúng ta tính chuyện đánh dẹp các sứ quân. Ta xem, Đỗ Cảnh Thạc là sứ quân nguy hiểm nhất, thế lực họ Đỗ ở động giang rất mạnh, Thạc là kẻ mưu lược, trong các tướng của Ngô Vương ngoài Phạm Bạch Hổ, Phạm Lệnh Công chẳng ai có thể bì với Thạc, lại nữa ở thế đất Động Giang tây có thể liên với Kiều Công Hãn, đông có thể kết với Nguyễn Siêu, ta trừ Thạc đi như phá cây cầu chẳng cho người qua lại, các sứ khác về sau cứ thế mà đánh. Các ngươi có kế nào phá quân Đỗ Cảnh Thạc?

Lưu Cơ khi ấy đứng ra nói :

- Họ Đỗ ở Động Giang cũng đã gần trăm năm, cho xây nhiều thành lũy đồn trại, nhưng xem ra các thành trại không đủ gần để ứng cứu nhau khi nguy cấp. Nay ta cho người do thám biết Thạc ở thành trại nào thì cho đánh các thành trại còn lại, quân không chủ tướng khó lòng cự, phá được các thành rồi, khi ấy thế của Thạc yếu lo gì không thắng. 

- Kế ấy thực hay lắm, tuy nhiên phải biết đánh với Cảnh Thạc tuyệt đối không thể khinh suất, trận này là trận đầu, nhưng có thể sẽ kéo dài, việc lương thảo khi ấy rất trọng. Nay ta giao cho Đinh Liễn, Lê Hoàn ở lại giữ Bình Kiều, trước chu toàn lương thảo cho đại quân, sau chi viện khi cần. Các tướng còn lại nghe lệnh!

- Xin đợi lệnh chủ tướng !

- Lưu Cơ, Nguyễn Bặc làm tiên phong, mỗi người điểm lấy 2 ngàn quân, tiến ra đóng mặt nam, cho người thăm dò, không chỉ là chổ đi lại của Đỗ Cảnh Thạc mà còn cả địa thế của các thành trại, cả kho lương của Thạc. Phạm Hạp, Phạm Cự Lang mỗi người điểm hai ngàn quân, chia nhau vây lấy hai hướng đông, tây, ngăn không cho quân Thạc cầu viện. Ta cùng Đinh Điền, Trịnh Tú sẽ dẫn đại quân tiếp ứng.

- Rõ ! - các tướng đồng thanh. 


Mùa thu 966, Đinh Bộ Lĩnh từ Ái Châu mang đại quân ra đánh Đỗ Cảnh Thạc, diễn biến trận chiến ấy ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.




Sunday, November 10, 2013

Loạn Thế Lộ Chân Long hồi thứ 11

Chương II: Đinh Tiên Hoàng - thống nhất giang sơn

Tấn Vương mất, nước chẳng còn vua, 12 sứ quân nổi lên hùng cứ một phương, cảnh hỗn loạn tương tàn diễn ra, Đinh Bộ Lĩnh rời Hoa Lư lập chí thống nhất đất nước, diệt xong bọn tặc thần Lĩnh kéo quân về Thái Bình đánh hai thôn Đường - Nguyễn.

Đại quân kéo của Đinh Bộ Lĩnh kéo đến gần Bố Hải Khẩu, Lĩnh giao cho Trịnh Tú, Nguyễn Bặc, Phạm Cự Lang, Lưu Cơ ở lại trông quân, Lĩnh nói :

- Các ngươi ở lại trông quân, trước sai người báo cho Trần Lãm biết, sau duy trì phép tắc chớ để sai sót.

Các tướng nhận lệnh, còn Bộ Lĩnh, Phạm Hạp, Đinh Điền dẫn theo 3 ngàn quân tiến đánh Đường - Nguyễn, đến nơi, Lĩnh lệnh cho quân đóng lại một bãi đất trống cách hai thôn khoảng một dặm, lại sai dựng trại thành hình tròn, các trại sát nhau, canh phòng cẩn mật.

Ngày hôm sau Lĩnh lệnh cho Đinh Điền ở lại giữ trại, còn mình và Phạm Hạp chia nhau đánh vào hai thôn, quân lĩnh kéo tới đã không thấy quân hai thôn ấy đâu, đành phải rút về trại, Lĩnh nói :

- Ta xem phải dùng lại cách của Dương Cát lợi khi trước rồi. Nay nên chia quân thành các đội, mỗi đội năm mươi người, ban ngày vào rừng tìm kiếm, ban đêm chia nhau canh gác phòng khi giặc đánh úp.

Quân sỹ theo lệnh tiến sâu vào rừng lùng giặc, trong rừng cây cối ngang dọc như tơ nhện, giữa rừng lại có nhiều kênh nước khiến cho quân sỹ rất khó khăn và nhanh mất sức. Tìm kiếm hơn mười ngày mà chẳng thấy tăm hơi giặc đâu, đang lúc quân sỹ dần có tâm lý chán nản, Lĩnh họp quân lại nói :

- Chúng ta vừa hành quân vừa lùng giặc đến nay đã nửa tháng mà chưa có kết quả gì, nay kho lương chỉ đủ dùng trong mười ngày nữa, có thể chúng ta phải giảm bớt khẩu phần để duy trì, ta báo để các ngươi khỏi thắc mắc.

Quân tướng nghe thế lại càng sinh chán nản, đem chuyện ấy kháo nhau, nào ngờ phía trên ngọn cây, do thám của quân Đường - Nguyễn nghe hết chuyện ấy. Do thám về căn cứ, đó là một hang động mà lại chẳng phải hang động, được dựng bằng những cây gỗ to chắc, phủ xung quanh là lùm cây rậm rạp, dây gai chằng chịt, hào trưởng hai thôn được tin ấy bàn nhau :

- Tưởng thế nào, xem ra quân Vạn Thắng Vương mà dân gian truyền tụng cũng giống quân Tấn Vương lần trước thôi, ta nên đợi thêm mấy ngày nữa, khi chúng đã cùng tột chán nản vì mệt và đói thì đang đêm vào đánh úp, lại cho phục quân chặn đường lui của chúng, một trận mà diệt gọn. - Hào trưởng thôn Đường nói -

- Ta thấy nên đánh ngay, sợ rằng mấy hôm nữa trời lại có mưa dầm không dùng hỏa công được. Quân ấy lùng ta 10 ngày vô vọng lại hay tin phải giảm khẩu phần ăn, cũng rối loạn lắm rồi.

Nghe hào trưởng thôn Nguyễn nói phải, hào trưởng thôn Đường cũng nhất trí kế ấy, đêm hôm đó kéo 2 ngàn quân được trang bị giáo nỏ đầy đủ kéo ra đánh, ra đến bìa rừng đã thấy trại của quân Đinh Bộ Lĩnh đèn đuốc tỏ mờ, quân sỹ canh gác lác đác bài người, liền lệnh cho lính bắn nỏ hạ hết lính canh, sau đó dùng lửa đốt trại.

Lửa vừa bùng lên thì chung quanh cả ngàn ngọn đuốc cũng vậy bọc lấy quân của hai thôn, đó là quân Đinh Bộ Lĩnh, thì ra việc thiếu lương chỉ là kế yếm trá hòng dụ quân Đường Nguyễn ra khỏi rừng.

Hào trưởng hai thôn lúc này biết bị trúng kế, bèn liều mình chạy vào doanh trại của Đinh Bộ Lĩnh hòng tìm đường qua đám lửa mà thoát, nào ngờ vừa chạy vào cả thảy đã thụp xuống hố sâu, biết chẳng thoát được phải xin hàng. Lính trói hào trưởng hai thôn ấy đem đến gặp Đinh Bộ Lĩnh, Lĩnh trỏ tay quát :

- Hai ngươi biết tội của mình không ?

- Chúng tôi giết Tấn Vương biết trước sau cũng có quân đến đánh, nhưng trước khi chết có mấy điều muốn biết để được cam lòng.

- Các ngươi muốn biết gì ?

- Các ông đào hố ấy khi nào, đất ấy lại đổ đi đâu?

Đinh Bộ Lĩnh bất giác cười lớn rồi nói :

- Tất nhiên là đào ban ngày rồi, ta chỉ cho một nửa quân đi lùng tìm, còn nửa còn lại há ở không, đêm nào các ngươi chẳng cho người do thám đúng không ? Đất ấy lại đổ vào trong trại, trại ta dựng thành vòng tròn sát nhau làm sao các ngươi phát giác, lại nữa, đại quân của ta đóng ở Bố Khẩu, thiếu lương sao được, ta giả truyền tin cốt dụ rắn khỏi hang đó. Các ngươi chỉ quen ở trong rừng, cướp phá người qua lại, chỉ biết đánh nhau theo cách của mình mà không biết đến người nên tất thua.

Hai hào trưởng nghe đến đó cúi mặt không nói.

- Các ngươi giết vua, tội ấy chẳng thể tha, nhưng các ngươi loạn ở đây cũng vì vua trước ra oán, vua sau đánh riết, ta phân thiệt hơn, nay chỉ muốn lấy 2 ngón tay cái của các ngươi, về sau không dùng nỏ được nữa, còn lại ta tha cho, từ nay nên về lại làng làm ăn lương thiện như trước, các ngươi phục chăng?

Nghe thế từ hào trưởng đến lính tráng ai nấy quỳ xuống lạy tạ như tế sao, xong lại hô : "Vạn Thắng Vương muôn năm, muôn năm".

Đinh Bộ Lĩnh an bài cho người hai thôn Đường - Nguyễn đâu vào đấy rồi kéo quân về Bố Hải Khẩu hội quân với bọn Trịnh Tú.

Lại nói chuyện Trần Lãm năm ấy đã ngoại sáu mươi tuổi, từ đời cha của mình là Trần Công Đức, thay nhau làm hào trưởng ở Bố Khẩu, về sau thời cuộc nhiễu nhương nên phải mộ quân tuyển lính để bảo vệ lấy nghiệp của gia đình, nhưng tuyệt đối không mang quân đi đánh ở ngoài. Nay bỗng đâu nghe tin có đại quân bảy tám ngàn kéo đến hết sức lo ngại, liền hội hai con là Trần Thăng và Trần Nguyên Thái vào nói :

- Chúng ta tuy xưa nay chưa gây hấn với ai, nhưng trong thời loạn lạc, chẳng vì không hận mà không binh đao, nay có bảy tám ngàn quân kéo đến, hai con thấy nên làm sao ?

- Thưa cha, con xin lãnh một ngàn binh ra đón, nếu họ muốn đánh thì cha cầm đại quân ra chi viện cũng chưa muôn - Trần Thăng thưa -

- Anh con nói phải thưa cha, nên thăm dò trước rồi mới tính. - Trần Nguyên Thái nói -

Trần Lãm cho là phải, lệnh cho Trần Thăng điểm binh đi ngay. Thăng vừa định ra thì có lính đến báo :

- Thưa chủ tướng, quân ấy cử sử giả tới, đáng đứng đợi ở ngoài.

- Mời vào !

Người đi vào là một trung niên dáng bộ nho nhã, người ấy thi lễ rồi thưa :

- Tôi là Trịnh Tú, người dưới của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, nay chủ tướng tôi có việc phải qua đây, sợ có hiểu lầm nên sai tôi mang thư đến gặp Trần Lãm Công.

Trần Lãm nhận thư mở ra đọc, thư viết:

"Cũng như Trần Lãm Công, Lĩnh tôi xưa nay ở đất Hoa Lư chẳng phạm ra ngoài, nay vì nước có biến, thân trai phải lo, đành quên những ngày nhàn hạ mà kéo quân đi, sau khi ở Cổ Loa giết hết bọn tặc thần, cơn giận chưa hả lại quay về Thái Bình hỏi tội Đường - Nguyễn hai thôn, chuyện ấy chẳng hệ gì đến Lãm Công nhưng vì việc quân có nhiều điều khó phải đóng quân gần đất của ngài chớ chẳng có ý gì xâm phạm, nay viết thư báo để dạ Lãm Công được an. Đôi lời từ Bộ Lĩnh."

Đọc xong, Trần Lãm quay qua Trịnh Tú :

- Nghe danh Đinh Bộ Lĩnh từ lâu, lui hai vua chẳng động một binh, nay lại lập chí vì nước thật đáng khâm phục.

- Chủ tướng tôi 26 năm ở đất Hoa Lư chẳng nửa bước ra ngoài nhưng lòng trải khắp thiên hạ, việc dân nước đều đêm ngày lo nghĩ, nay vì nước không vua, sợ rằng có tương tàn đẫm máu, dạ chẳng đành phải cất quân đi, chủ tướng biết Lãm Công chẳng nhân loạn ấy mà động binh mưu sự nên trong dạ kính lắm.

- Chẳng hay, ta có duyên gặp không ?

- Chủ tướng tôi đi đánh Đường Nguyễn hẹn đúng 20 ngày thì về, xưa nay đánh trận mỗi mỗi đều tính toán chu toàn, tất y hẹn chẳng sai, khi ấy sẽ đến ra mắt Lãm Công.

Trịnh Tú cáo biệt ra về, các tướng lại chia nhau coi quân, lệnh cho toàn quân không được phạm của dân, không được lấn đất Trần Lãm Công, không được lơi phép tắc bỏ hàng bỏ ngũ, ai trái thì tội chém. Quân sỹ trong quân kẻ nhiều thì theo Lĩnh hai mươi năm kẻ ít cũng năm sáu năm được huấn luyện kỹ lưỡng lại phục chí phục tài chủ tướng nên việc tuân phép tắc chẳng khó gì.

Trần Lãm khi ấy, mỗi ngày đều cử người do thám, tin báo về chẳng ngày nào khác ngày nào, Lãm vững dạ lắm, khen với các con :

- Huấn luyện được một đội quân như thế, chủ tưởng phải đức tài đều đủ, nay nước gặp loạn, có được người như vậy thật quý lắm. Ta nghe xưa Đinh Bộ Lĩnh mới 14 tuổi có theo Ngô Vương đánh giặc hiến nhiều kế hay, về đất Hoa Lư lại được Vua đích thân đến thăm, chuyện Tấn Vương phế Binh Vương cũng do Lĩnh hiến kế, quả là hiếm thấy.

Trần Thăng, Trần Thái nghe thế đều phục lắm.

Lúc ấy có tin Đinh Bộ Lĩnh thắng lợi trở về, đã hội quân gần Bố Khẩu, Trần Lãm liền sai Trần Thái đưa thư qua vời Lĩnh, lại sai người dưới bày tiệc ở bãi biển để đãi Lĩnh.

Hôm ấy, Bộ Lĩnh cùng các tướng đều đến đủ, chủ khách chia nhau ngồi đâu vào đấy, Trần Lãm lựa lời hỏi :

- Lão tuy đã tự coi mình là người Việt, ăn ở theo nếp người Việt, nhưng tổ của lão là người Hán ở phương Bắc, ở phương Bắc xưa có ông Tôn Tử mưu cao kế sâu bày ra 36 cách dùng binh, sau lại có ông Gia Cát Lượng tinh thông mọi bề thường dụng mẹo hay bắt tướng địch. Không biết đạo dùng binh của Đinh tướng quân thế nào?

- Tôi xem Tôn Tử bày mưu cũng chỉ rốt ráo mong cái thắng trên chiến trường, đặng xưng hùng xưng bá, còn như Gia Cát Lượng phò giúp Lưu Bị hiến kế chia ba thiên hạ tạo thêm mấy chục năm nội chiến, trong khi trước đó nhà Hán đã tận số, Tào Tháo không những có công dẹp loạn khắp nơi lại có tài trị nước, nếu Bị, Lượng chẳng vì nuối cái danh nhà Hán ấy thì thiên hạ đã thái bình, đâu có thêm bao nhiêu người chết. Đạo dùng binh của tôi rất đơn giản đó là dùng binh phải đạo, dùng binh phải đạo thì khó chẳng ngại, bại chẳng than trước sau gì cũng giành thắng lợi.

- Thế nào là dùng binh phải đạo ?

- Cực chẳng đành mới phải dụng binh vậy nên nước có xâm lăng thời tận sức giệt giặc, nước có can qua thời ra dẹp loạn, dân gặp lầm than thời đem binh khởi tạo thái bình. Còn như những kẻ chỉ vì muốn xưng hùng bá giành lấy vương vị mà chia các cõi coi mạng dân như cánh bèo thả nước tôi thật không xem trọng.

- Thế còn trên chiến trường ?

Bộ Lĩnh khi ấy bước ra khỏi bàn, tiến về phía biển, giang hai tay ra đón gió rồi nói :

- Ví như nước, ví như gió nào có hình thù chi mà đâu đâu cũng đến, mỗi mỗi đều chảy thổi hà tất phải có hình dạng mới thành. Cũng vậy, đối mặt với địch, chỉ đạo phải giữ, còn lại tùy cơ ứng biến cần gì phải nói thành lời.

Trần Lãm lại hỏi :

- Đinh tướng quân nói chỉ khi bờ cõi có xâm lăng, trong nước có can quan, dân chúng gặp lầm than mới nên dùng binh, đến như dùng binh đuổi xâm lăng, dùng binh cứu lấy dân cùng khổ thì lão đây đã tỏ, còn như dùng binh dẹp loạn đạo ấy khác gì với xưng hùng xưng bá ?

- Người dẹp loạn cốt mong cảnh thái bình, kẻ bá mộng nhìn xương đống dưới chân mà cười, người dẹp loạn ra ơn trăm họ, kẻ bá mộng đêm mơ oán ngày sau. Thật khác lắm.

- Nay nước chia năm sẻ bảy, Đinh tướng quân có lòng dẹp loạn chăng ?

- Lòng tôi chỉ mong cảnh thái bình, trăm họ ấm no, đâu mong gì làm người dẹp loạn.

Trần Lãm vuốt râu cười không hỏi thêm. Tiệc xong, tiễn Bộ Lĩnh và các tướng về, Trần lãm mới hội các con lại:

- Trần Nương, lúc nãy con giả kẻ hầu đứng bên đã thấy nghe cả rồi,  nay ta muốn gả con cho Đinh Bộ Lĩnh, con có thuận lòng không ?

Trần Nương là con gái út của Trần Lãm, khi ấy mới tròn đôi mươi, nhan sắc kiều diễm, tính nết thuần hậu, nàng ta vốn đem lòng ái mộ Đinh Bộ Lĩnh từ lâu, nay nhân lúc cha mở tiệc đãi Lĩnh mới giả làm kẻ hầu để tận mắt tận tai. Thấy Đinh Bộ Lĩnh là kẻ khí ngạo đất trời, phách động núi sông, thì trong lòng đã định, nghe cha nói đến chuyện gả mình cho Lĩnh liền e lệ đáp :

- Thưa cha, con phận gái, cha bảo sao thì con nghe vậy !

Trần Lãm cười ra chiều hài lòng lắm, lại trông qua Trần Thái, Trần Thăng nói:

- Nay thế nước chia làm mười hai sứ, chúng ta cũng có phần, nhưng chẳng giữ được mãi hoài, sự đời tan rồi hợp, phải trông cho xa. Ta nay cũng đã già, chẳng biết đi lúc nào, sự này là tính cho hai con. Đinh Bộ Lĩnh tài đức đều vẹn, chẳng phải tầm thường, sớm muộn ông ta cũng thống nhất đất nước, gặp một kẻ như thế trên chiến trường về sau chi bằng ngay bây giờ theo lập công thì hậu vận sáng lắm. Ta tính giao binh quyền lại cho ông ta, lại để hai con theo làm bộ tướng, hai con thấy thế nào?

- Nhưng thưa cha, chẳng phải lúc nãy ông ta nói không mong làm người dẹp loạn đấy sao - Trần Thăng hỏi lại -

Trần Lãm cười lớn:

- Trần Thăng, con tuy có dũng mà ý chẳng nhanh, Đinh Bộ Lĩnh nói người dẹp loạn cốt mong cảnh thái bình, ra ơn trăm họ, ta hỏi ông ta có lòng dẹp loạn không, ông ta đáp chỉ mong thái bình, trăm họ ấm no, ấy là đã lập chí dẹp loạn rồi, còn như giữa có loạn rồi phải dẹp loạn để thái bình và thái bình mà không loạn thì ông ta chọn lấy thái bình mà không loạn nên mới nói chẳng mong làm người dẹp loạn.

- Con hiểu rồi thưa cha !

Lúc này Trần Thái mới đứng ra nói :

- Thưa cha, Đinh Bộ Lĩnh lập chí dẹp loạn hẳn đã tính phải thu phục Bố Kỳ Khẩu chúng ta, nhưng quân kéo đến mà chẳng động, lại trước sau tỏ lòng kính với cha, như vậy tất có ý dụng đức phục người trước khi dụng binh. Người nhân đức như vậy đáng để chúng con theo lắm, thưa cha.

Trần Thăng cũng nói theo:

- Chúng con bằng lòng, thưa cha.

- Tốt lắm, tốt lắm.

Được cả ba con ủng hộ, cuối mùa xuân năm 966, Trần Lãm gả con gái mình là Trần Nương cho Đinh Bộ Lĩnh, lại đêm binh quyền giao cho cả. Mười hai sứ quân chỉ còn lại mười một, quân số dưới trướng của Lĩnh đã lên tới một vạn năm ngàn, Lĩnh cho quân xây phòng tuyến phòng thủ ở đất Thái Bình.

***

Vì sao đã lập chí dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh lại cho xây tuyến phòng thủ ở Thái Bình ? Xem hồi sau sẽ rõ.